Cải cúc là loại dược liệu quý, chứa nhiều tinh dầu, axit amin (asparagine acid glutamic, acid aminobutyric, alamin, leucin, acid aspartic, prolin, valin), acid 3.5-di-cafeo, vitamin A, B, C, herniarin, gossipitrin, quercimetrin, acid clorogenic…
|
Ảnh minh họa |
Theo y học cổ truyền, cải cúc có vị nhạt, ngọt, hơi đắng và the. Rau có mùi thơm, tính mát, tác dụng tán phong nhiệt, kiện tỳ vị, trừ đờm, chữa ho dai dẳng, ăn uống không tiêu, ít sữa, giúp giảm cân... Tuy nhiên, để tốt cho sức khỏe những người sau không nên ăn rau cải cúc:
Người đang có huyết áp thấp
Rau cải cúc rất tốt cho sức khỏe của những người đang bị huyết áp cao. Tuy nhiên, những người đang có huyết áp thấp không nên ăn loại rau này vì nó có thể gây ra tình trạng hạ huyết áp.
Một số trường hợp huyết áp bình thường nhưng ăn quá nhiều rau cải cúc cũng có thể gặp tình trạng tụt huyết áp.
Trẻ dưới 1 tuổi
Rau cải cúc vốn có nhiều chất xơ và các loại vitamin, khoáng chất cần thiết cho cơ thể nhưng không phù hợp với trẻ nhỏ dưới 1 tuổi. Đây là thời điểm hệ tiêu hóa của trẻ chưa được hoàn thiện, ăn rau cải cúc sẽ gây khó tiêu. Nếu sử dụng cải cúc để trị ho cũng không nên áp dụng với các bé dưới 1 tuổi.
Người bị tiêu chảy, cảm lạnh
Người đang gặp vấn đề về tiêu hóa như tiêu chảy không nên ăn rau cải cúc. Loại rau này có thể khiến tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn vì rau có tính mát, vị đắng. Khi bị tiêu chảy, tốt nhất không nên ăn các thực phẩm tính mát như vậy để tránh tình trạng bệnh chuyển xấu hơn.
Khi bị lạnh bụng, cảm lạnh, thương hàn, người bệnh cũng cần hạn chế ăn các thực phẩm có tính hàn như rau cải cúc. Nếu vẫn muốn ăn loại rau này, tốt nhất nên chờ cho cơ thể khỏe lại hoặc khi nấu phải kết hợp với các loại nguyên liệu có tính ấm khác như gừng để cân bằng.
Người đang sử dụng thuốc
Rau cải cúc lành tính nhưng cũng không nên sử dụng quá nhiều (đặc biệt là phần giữa nụ hoa) vì rau có chứa pyrethrin, có thể gây ra tác dụng phụ nếu đi vào cơ thể với liều lượng lớn. Loại rau này cũng gây ra phản ứng dị ứng nhất là với người hay bị dị ứng phấn hoa.
BS Nguyễn Văn Thái (Viện Y học Phóng xạ và Ung bướu quân đội)