PGS.TS Nguyễn Danh Tiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhận định, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn với Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Chiến công oanh liệt đó đã ghi vào lịch sử dân tộc một trang sử vàng chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một sự kiện chính trị - quân sự mang tầm vóc thời đại. Thắng lợi vĩ đại đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, nhưng sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định.
Đảng đã đề ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo và kịp thời
Sau Hiệp định Paris (1/1973), cục diện chiến trường thay đổi căn bản, tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía cách mạng Việt Nam. Nhận định thời cơ chiến lược mới đã đến, tháng 10/1974, Bộ Chính trị họp và hạ quyết tâm lịch sử: Giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nhận thấy khả năng Mỹ quay lại can thiệp là rất thấp, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu, đồng thời nêu rõ: “Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”.
 |
Bộ đội ta đánh chiếm sân bay Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Ảnh tư liệu. |
Để kiểm nghiệm nhận định và thăm dò phản ứng của Mỹ, ta mở Chiến dịch Đường 14 - Phước Long (cuối 1974 - đầu 1975). Thắng lợi Phước Long cùng với phản ứng dè dặt của Mỹ càng củng cố quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975 của Bộ Chính trị.
Thực hiện quyết tâm đó, Chiến dịch Tây Nguyên (mở màn ngày 4/3/1975) đã giành thắng lợi vang dội, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch, tạo ra bước ngoặt chiến lược. Quân ta thừa thắng, nhanh chóng giải phóng các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, cắt đôi chiến trường miền Nam. Trước diễn biến mau lẹ của tình hình, Bộ Chính trị kịp thời điều chỉnh kế hoạch, xác định quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trước mùa mưa năm 1975.
Đòn tiến công chiến lược thứ hai với thắng lợi quyết định của Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (kết thúc ngày 29/3/1975) đã giải phóng hoàn toàn Quân khu 1 và 2 của địch. Thời cơ chiến lược ngàn năm có một đã tới. Ngày 1/4/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng 20 năm”, hạ quyết tâm: “Nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất, tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay (1975), không thể để chậm”.
Thực hiện quyết tâm sắt đá đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã dốc sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh. Với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”, một lực lượng quân sự khổng lồ gồm các quân đoàn chủ lực cùng khối lượng vật chất hậu cần lớn chưa từng có đã thần tốc tập kết quanh Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra và toàn thắng chỉ sau hơn 4 ngày đêm (từ 26 đến 30/4/1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, sự nhạy bén nắm bắt thời cơ, đánh giá đúng tình hình, kịp thời điều chỉnh kế hoạch từ giải phóng trong 2 năm xuống còn giải phóng trong năm 1975 và cuối cùng là trong tháng 4/1975, thể hiện tầm cao trí tuệ và bản lĩnh của Đảng. Đại thắng mùa Xuân 1975 là thành quả của đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, được bổ sung và hoàn thiện liên tục, là sự hội tụ tài thao lược và sự chỉ đạo thiên tài của Đảng.
Huy động những tướng lĩnh cao cấp nhất cho những trận quyết chiến chiến lược
Để bảo đảm thắng lợi cho cuộc Tổng tiến công, đặc biệt là trận mở màn then chốt Buôn Ma Thuột, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã có quyết định sáng suốt: cử những tướng lĩnh tài năng, dày dạn kinh nghiệm nhất vào các mặt trận trọng yếu. Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng, cùng các cán bộ cấp cao như Đinh Đức Thiện, Lê Ngọc Hiền... được cử vào chiến trường miền Nam (Đoàn A75) để trực tiếp chỉ đạo.
 |
Từ phải sang: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Song Hào, Thiếu tướng Vũ Xuân Chiêm, Thượng tướng Hoàng Văn Thái chỉ đạo và theo dõi tác chiến trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Ảnh tư liệu.
|
Trước khi Đoàn A75 lên đường, các tướng lĩnh hàng đầu như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái đã họp bàn kỹ lưỡng về cách đánh Tây Nguyên, thống nhất phải đánh hiểm, đánh chắc thắng trận đầu ở Buôn Ma Thuột, tạo thế bất ngờ, sau đó phát triển nhanh chóng.
Tại Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh chiến dịch được thành lập do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Vai trò của Tư lệnh Hoàng Minh Thảo rất nổi bật. Ngay từ năm 1973, ông đã đề xuất với Đại tướng Võ Nguyên Giáp chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu tiến công chủ yếu ở Tây Nguyên vì đây là nơi hiểm yếu nhưng lại sơ hở nhất. Ý kiến sắc sảo này đã được Bộ Chính trị và Bộ Tổng Tư lệnh chấp nhận. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là trận Buôn Ma Thuột "điểm đúng huyệt", làm rung động thế trận địch, chính là minh chứng cho nhãn quan quân sự sắc bén của Tướng Hoàng Minh Thảo.
 |
Đại tướng Văn Tiến Dũng điện báo tin chiến thắng Tây Nguyên tháng 3/1975. Ảnh tư liệu |
Đại tướng Văn Tiến Dũng, với vai trò đại diện Bộ Thống soái tối cao tại chiến trường, đã trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch Tây Nguyên (A75), cùng Bộ Tư lệnh chiến dịch đề xuất các phương án tác chiến tối ưu, thực hiện xuất sắc phương châm chiến lược đã đề ra, góp phần quyết định vào thắng lợi vang dội này. Báo chí quốc tế thời điểm đó cũng nhận định trận Buôn Ma Thuột là một "thắng lợi thần kỳ", "một bước ngoặt" làm đảo lộn bản đồ quân sự miền Nam.
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh: Tư liệu. |
Sau thắng lợi Tây Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Tổng hành dinh ở Hà Nội đã cùng Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương làm việc không kể ngày đêm, theo dõi sát sao diễn biến chiến trường, đưa ra những mệnh lệnh, chỉ thị kịp thời, tối ưu. Khi Huế được giải phóng, Đại tướng lập tức hạ lệnh khẩn trương giải phóng Đà Nẵng trong vòng 3 ngày. Đồng thời, ông quyết định táo bạo: đưa Quân đoàn 1 đang trên đường vào Trung Bộ chuyển hướng, thần tốc hành quân thẳng vào Đông Nam Bộ, chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng vào Sài Gòn. Ông cũng quyết định thành lập Quân đoàn 3 để phối hợp giải phóng các tỉnh duyên hải còn lại rồi nhanh chóng tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Để nắm bắt tình hình nhanh nhất, Đại tướng thành lập Tổ thường trực giúp việc Tổng Tư lệnh. Chỉ trong 3 ngày, Mặt trận Quảng Đà dưới sự chỉ huy của Trung tướng Lê Trọng Tấn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng Đà Nẵng, tiêu diệt và làm tan rã hơn 10 vạn quân địch.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp bàn về đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng tại Sài Gòn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình và khẳng định thời cơ tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Bộ Chính trị nhất trí cao, quyết định mở trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Để tập trung cao độ sự lãnh đạo, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị cử 3 Ủy viên Bộ Chính trị (Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng) trực tiếp tham gia chỉ đạo tại mặt trận. Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập do Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy, cùng các tướng lĩnh tài ba khác như Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện... Việc kết hợp cán bộ Trung ương giàu kinh nghiệm chỉ đạo chiến dịch lớn với cán bộ địa phương am hiểu chiến trường đã tạo nên một bộ máy chỉ huy mạnh mẽ, thống nhất, linh hoạt và hiệu quả.
Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trước đó, ngày 7/4, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Bộ Chính trị và Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh lịch sử: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Mệnh lệnh này đã thôi thúc các cánh quân tiến về Sài Gòn với khí thế không gì cản nổi.
Việc huy động và sử dụng đúng đắn những tướng lĩnh xuất sắc nhất vào những thời điểm, mặt trận quyết định là một minh chứng hùng hồn cho tài thao lược và tầm nhìn chiến lược của Đảng.
Lãnh đạo phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Sức mạnh làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 không chỉ đến từ đường lối và sự chỉ đạo quân sự tài tình, mà còn bắt nguồn từ sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đoàn kết là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta. Đảng ta luôn coi trọng xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm hạt nhân quy tụ sức mạnh toàn dân.
Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất, vượt qua mọi khó khăn, đập tan âm mưu chia rẽ của kẻ thù, giữ vững niềm tin của nhân dân, tạo thành chất keo gắn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thành một khối vững chắc.
Sức mạnh đoàn kết đó được thể hiện rõ nét trong việc huy động sức người, sức của cho trận quyết chiến cuối cùng. Chỉ trong thời gian rất ngắn, một khối lượng vật chất khổng lồ (hơn 60.000 tấn các loại, gồm đạn dược, xăng dầu, lương thực, thuốc men...) và lực lượng quân sự hùng hậu (4 quân đoàn chủ lực, Đoàn 232 tương đương quân đoàn, các đơn vị binh chủng, không quân, hải quân, cùng lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân) đã được huy động và bảo đảm cho Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đây là sự tiến bộ vượt bậc về khoa học tổ chức và nghệ thuật quân sự, tạo ưu thế áp đảo tại địa bàn trọng yếu vào thời điểm quyết định.
 |
Bộ đội miền Bắc, trong đó có hàng vạn người con Thủ đô lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Ảnh tư liệu. |
Nhân dân miền Bắc đã dốc toàn lực chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Tại miền Nam, dưới sự chỉ đạo của Đảng, sức mạnh tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực đã kết hợp chặt chẽ với sức mạnh nổi dậy của quần chúng nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp vô song, nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch, buộc chính quyền Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện.
Bên cạnh phát huy sức mạnh dân tộc, Đảng ta luôn coi trọng tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chúng ta đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn, hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân loại tiến bộ. Chỉ riêng trong kháng chiến chống Mỹ, lượng viện trợ quốc tế lên tới gần 2,4 triệu tấn vật chất hậu cần và kỹ thuật. Sức mạnh thời đại không chỉ giúp ta về vật chất mà còn tạo thế và lực trên mặt trận ngoại giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Hiệp định Paris 1973, tạo tiền đề cho Đại thắng mùa Xuân 1975. Như Đảng ta đã khẳng định, nhờ kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chúng ta đã tạo thành một mặt trận quốc tế rộng lớn chưa từng có ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
50 năm đã trôi qua, Đại thắng mùa Xuân 1975 mãi là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Thắng lợi vĩ đại đó gắn liền với sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng không chỉ đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, kịp thời mà còn biết cách huy động và tập hợp sức mạnh của cả dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn với sức mạnh thời đại, sử dụng hiệu quả những tướng lĩnh tài năng nhất cho trận quyết chiến cuối cùng.
"Sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong mùa Xuân lịch sử năm 1975 không chỉ kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, thống nhất non sông, mà còn mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời để lại những bài học kinh nghiệm vô giá cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau", PGS.TS Nguyễn Danh Tiên nhấn mạnh.
Mai Nguyễn