Thuật ngữ “kinh doanh tâm linh” hay “BOT chùa”… được hình thành trong những năm gần đây, khi nhiều doanh nghiệp nhiệt tình đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để xây chùa rồi gắn các dịch vụ kinh doanh, thu phí cùng vô số hòm công đức.
Nổi bật trong đó là doanh nghiệp tư nhân xây dựng Xuân Trường do ông Nguyễn Văn Trường (sinh năm 1963 tại Hoa Lư, Ninh Bình làm chủ).
|
Được cấp hàng nghìn hecta đất cho đại gia xây chùa: Bao giờ đại gia Xuân Trường trả lại cho Nhà nước? |
Suốt nhiều năm qua, dư luận mãi mê tranh cãi về doanh thu của công ty Xuân Trường từ chùa Bái Đính (ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á) và quần thể di tích Bái Đính – Tràng An cũng như chùa Tam Chúc (ngôi chùa lớn nhất thế giới) và quần thể Khu du lịch Quốc gia Tam Chúc tại thị trấn Ba Sao và xã Khả Phong (huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam) và nhiều ngôi chùa khác trên khắp cả nước mà doanh nghiệp này đang xây dựng, vận hành và thu phí. Tranh cãi về doanh thu từ đâu để doanh nghiệp có thể bỏ ra nhiều chục tỷ đồng liên tiếp đi xây chùa (chùa Tam Chúc 11.000 tỷ, chùa Bái Đính 15.000 tỷ, khu du lịch tâm linh tại Hải Phòng 9.800 tỷ, bảo tháp lớn nhất thế giới dự án Khu du lịch tâm linh Hồ Núi Cốc, Thái Nguyên 15.000 tỷ đồng…) mà quên đi mất câu chuyện ai cấp hàng nghìn hecta đất cho công ty Xuân Trường xây chùa? Việc cấp đất có đúng các quy định pháp luật? và bao giờ Xuân Trường trả lại cho Nhà nước?
|
Diện tích đất mà công ty Xuân Trường đang xây dựng hàng loạt dự án chùa "khủng". |
Mới đây, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy (đoàn Đà Nẵng) về vấn đề này. Dư luận mới ngã ngửa khi chính Bộ Tài nguyên Môi trường cũng đang bối rối trước câu hỏi: Bao giờ công ty Xuân Trường phải bàn giao lại cho Nhà nước sau khi hoàn thành xây dựng?
Cụ thể, Bộ TNMT đã thông tin về dự án Khu du lịch Quốc gia Tam Chúc qua đó tiết lộ nhiều bất cập mà điển hình là việc giao đất chưa rõ ràng.
Theo đó, Khu du lịch Quốc gia Tam Chúc đã có quy hoạch tổng thể được UBND tỉnh Hà Nam phê duyệt từ năm 2006, điều chỉnh năm 2012 (quy mô 5.100 hecta) và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 526/QĐ-TTg (quy mô 4.000 hecta), gồm nhiều khu chức năng, trong đó Khu văn hóa tâm linh Tam Chúc có diện tích 1.205 hecta.
Năm 2007, UBND tỉnh Hà Nam đã phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật Khu du lịch Tam Chúc, với diện tích trên 2.042 hecta, chủ đầu tư là Sở Thương mại- Du lịch.
Đến năm 2008, tỉnh này chấp thuận cho Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường thực hiện dự án. Từ năm 2006 đến năm 2009, UBND tỉnh Hà Nam đã ban hành 4 quyết định thu hồi đất và giao cho Sở Thương mại - Du lịch để phát triển Khu du lịch Tam Chúc, với tổng diện tích là 815,1 hecta.
Từ năm 2008 đến năm 2011, UBND tỉnh Hà Nam tiếp tục ban hành 2 quyết định thu hồi đất đã giao và giao toàn bộ diện tích 815,1 hecta nói trên cho Doanh nghiệp tư nhân xây dựng Xuân Trường để thực hiện dự án đầu tư xây dựng Khu du lịch Tam Chúc theo dự án được duyệt.
Trong đó, Quyết định số 1364 ngày 04/11/2008 cho doanh nghiệp này thuê đất với diện tích hơn 500 hecta, thời hạn 50 năm. Quyết định số 1380 ngày 09/11/2011 giao hơn 300 hecta đất, hình thức giao đất để quản lý và đầu tư xây dựng khu du lịch, nhưng không yêu cầu phải bàn giao lại cho Nhà nước sau khi hoàn thành xây dựng.
Bộ TNMT nêu rõ, các quyết định giao đất của tỉnh còn chưa rõ ràng về nội dung.
Còn đối với dự án của công ty Xuân Trường tại chùa Bái Đính. Về giao đất và cho thuê đất, từ năm 2006 đến năm 2012, UBND tỉnh Ninh Bình đã ban hành 9 quyết định thu hồi diện tích gần 520 hecta đất (chiếm 51,5 % so với quy hoạch được duyệt).
Giao đất cho 3 cơ quan gồm: Sở Thương mại - Du lịch (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hơn 495 hecta để thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu núi chùa Bái Đính; Ban quản lý quần thể danh thắng Tràng An 18,6 hecta để xây dựng cơ sở hạ tầng khu núi chùa Bái Đính và UBND huyện Gia Viễn hơn 4 hecta để mở rộng khu dân cư hiện hữu.
Bộ TNMT chỉ rõ, việc giao đất cho 3 đơn vị như trên để thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng, xây dựng khu tâm linh là chưa thể hiện rõ đối tượng được giao đất để quản lý hay giao đất để sử dụng.
Đồng thời, không thể hiện chế độ sử dụng đất (giao có thu tiền hay không thu tiền, hay thuê đất, không xác định thời hạn sử dụng đất); không thể hiện mục đích sử dụng từng loại đất theo quy định của Luật đất đai nên chưa đủ cơ sở để xác định diện tích phải tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, căn cứ để xác định giá đất.
Sự lập lờ trong những văn bản hành chính khiến ngay cả Bộ TNMT còn lúng túng trong việc xác định việc tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và thời hạn sử dụng đất.
Có lẽ ở trường hợp này, câu hỏi của dư luận, của nhân dân rằng bao giờ công ty Xuân Trường mới bàn giao lại cho Nhà nước chỉ có 2 mệnh đề: Bao giờ hoặc không bao giờ!
Đức Thuận