A-6A – Phiên bản Intruder đầu tiên
Vào cuối năm 1962, Grumman bắt tay vào chế tạo máy bay cường kích A-6 Intruder với tốc độ 2 chiếc mỗi tháng. Mặc dù có vấn đề về độ tin cậy của hệ thống điện tử hàng không, nhưng Intruder là một bước nhảy vọt lớn cho Hải quân Mỹ về một loại máy bay tấn công có tầm bay xa, tải trọng mang vũ khí nặng, linh hoạt và khả năng tấn công mọi thời tiết.
Ngày 1/2/1963, Phó Đô đốc Frank O'Beirne, Tư lệnh Lực lượng Đại Tây Dương Mỹ đã đưa 2 chiếc A-6A đầu tiên vào hoạt động chính thức trong phi đội VA-42. Phi đội VA-42 ngay lập tức dùng 2 chiếc này để huấn luyện chuyển loại phi công. Nhưng đó là một khởi đầu khó khăn.
Trong đầu những năm 1960, Hải quân Mỹ gần như không có kinh nghiệm hoạt động với thành viên phi hành đoàn thứ 2 trong máy bay chiến đấu hoặc máy bay tấn công nên gặp nhiều khó khăn khi đào tạo phi công thứ 2 trên A-6A, đặc biệt là hệ thống dẫn đường/ tấn công DIANE phức tạp trên A-6A.
|
A-6A Intruder của phi đội VA-42. |
A-6A là máy bay cường kích duy nhất của Hải quân Mỹ nói riêng và của quân đội Mỹ nói chung là có thể tham chiến sâu trong lãnh thổ của miền Bắc Việt Nam vào ban đêm trong chiến tranh Việt Nam. A-6A có thể làm vậy nhờ hệ thống dẫn đường/ tấn công DIANE (Digital Integrated Attack/Navigation Equipment- Hệ thống dẫn đường/ tấn công tích hợp kỹ thuật số). DIANE cung cấp một khả năng ném bom chính xác cao, ngay cả vào ban đêm và trong thời tiết xấu.
Các thiết bị trong hệ thống DIANE bao gồm:
- Radar trinh sát và theo dõi băng sóng Ku AN/APQ-88, có thể theo dõi các mục tiêu di động dưới mặt đất.
- Radar trinh sát và theo dõi băng sóng Ku Norden AN/APQ-92, có thể theo dõi các mục tiêu di động dưới mặt đất. Được dùng để thay thế AN/APQ-88, từ chiếc A-6A thứ 60 trở đi sử dụng radar này.
- Hệ thống dẫn đường quán tính Litton AN/ASN-31 cung cấp cho máy bay độ cao, vận tốc ngang và dọc và hướng bay dựa trên dữ liệu từ gia tốc kế và con quay hồi chuyển.
- Hệ thống điều khiển bay tự động 3 trục Sperry AN/ASW-16.
- Máy tính xử lý dữ liệu không khí CP-729/A, nhận dữ liệu từ hệ thống AN/ASN-31 và radar đo cao AN/APN-141 sau đó truyền dữ liệu cho hệ thống điều khiển tự động AN/ASW-16, màn hình hiển thị AVA-1 và máy tính đạn đạo. Sau này A-6A được nâng cấp sử dụng máy tính xử lý dữ liệu không khí CP-863/A hoặc CP-864/A.
- Máy tính đạn đạo Litton AN/ASQ-61 sử dụng dữ liệu từ hệ thống AN/ASN-31, máy tính xử lý dữ liệu không khí CP-729/A và radar để tính toán tự động điểm ném bom vào mục tiêu. Nó sử dụng một loạt các phương trình được lập trình sẵn về tương quan độ cao máy bay, độ cao mục tiêu, góc bổ nhào và các đặc tính của vũ khí được sử dụng. Máy tính kỹ thuật số đầu tiên này sử dụng bộ nhớ dạng trống như thiết bị lưu trữ chính của nó. Sau đó A-6A sử dụng máy tính đan đạo AN/ASQ-61A nâng cấp.
- Màn hình hiển thị Kaiser AVA-1 dùng để hiển thị địa hình và mục tiêu được quét từ radar.
- Radar doppler dẫn đường AN/APN-153 bao gồm ăng ten phát 4 chùm tia dưới thân máy bay cung cấp tốc độ so với mặt đất và góc trôi dạt đến máy tính dẫn đường để tính toán, theo dõi vị trí máy bay.
- Radar doppler đo cao AN/APN-141 dùng để bổ sung và hỗ trợ cho radar AN/APN-153. Được sử dụng chủ yếu khi tiếp cận hạ cánh và khi bổ nhào ném bom.
- Hệ thống liên lạc, dẫn đường và nhận dạng tích hợp AIC-14 giúp phi hành đoàn giữ liên lạc với bên ngoài và một số hệ thống dẫn đường như Dẫn đường chiến thuật (TACAN), Hệ thống tìm phương tự động (ADF). Và nó có cả hệ thống phân biệt bạn-thù (IFF).
|
Buồng lái của A-6A. |
Mặc dù không được tích hợp với DIANE, hệ thống điện tử phòng vệ của A-6A cũng là những hệ thống tiên tiến bao gồm:
- 2 ăng ten cảnh báo radar AEL AN/ALR-15. Từ chiếc 359 trở đi được thay thế bởi ăng ten cảnh báo Applied Technology Incorporated AN/APR-25.
- 1 hệ thống gây nhiễu chủ động Sanders AN/ALQ-41.
- 1 hệ thống gây nhiễu chủ động Sanders AN/ALQ-51.
- 1 hệ thống gây nhiễu chủ động AN/ALQ-100, xuất hiện từ chiếc thứ 310 trở đi.
- 1 bệ phóng mồi bẫy nhiễu xạ Tracor AN/ALE-18.
|
Một số vị trí trang bị hệ thống phòng vệ trên A-6A. |
Khi A-6A Intruder trở thành máy bay tấn công hạng trung tiêu chuẩn trên tàu sân bay thì A-1 Skyraider được cho nghỉ hưu, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Mỹ vẫn tiếp tục phát triển một chương trình đào tạo toàn diện cho phi hành đoàn của Intruder.
Đáng ngạc nhiên là trước đó vẫn chưa có máy bay A-6 huấn luyện tiêu chuẩn, các khóa học được giới hạn ở trên lớp và thời gian hạn chế trong một chiếc A-6A với một phi công là người hướng dẫn. Tuy nhiên, do chỉ có hai chỗ ngồi mà chỉ có một người lái, các phi công hướng dẫn cố gắng để hướng dẫn học viên ném bom/ dẫn đường trong khi điều khiển bay. Đây không phải là một khái niệm thật sự hoàn toàn khả thi. Một giải pháp đã được tìm thấy khi máy bay Grumman G-159 Gulfstream I có khung thân trước tương tự A-6.
Grumman đã cải tiến nó trang bị hệ thống DIANE để cung cấp mô phỏng huấn luyện đầy đủ như A-6A. Những chiếc G-159 Gulfstream I này được đặt tên là TC-4C Academe và chiếc đầu tiên (c/n 155722) thực hiện chuyến bay đầu tiên của mình tại Calverton vào ngày 14/6/1967.
Các hướng dẫn viên và vận hành ngồi trong thân chính để vận hành mô phỏng và hướng dẫn học viên. Có tổng cộng 9 chiếc TC-4C Academe (c/n 155722 đến c/n 155730) được chuyển giao cho Hải quân để huấn luyện các học viên ném bom/ dẫn đường trên A-6A.
|
Máy bay huấn luyện TC-4C Academe. |
A-6A được trang bị 5 giá treo vũ khí, có thể mang đến hơn 8 tấn bom với các loại bom lượn không điều khiển như 30 quả Mk.81, 30 quả Mk.82, 15 quả Mk.83, 4 quả Mk.84, 4 mìn phá Mk.36/ Mk.40, các loại bom chùm CBU,…
Ngoài ra, A-6A mang được 4 tên lửa không-đối-đất có dẫn đường AGM-12 Bullpup hoặc 4 tên lửa không-đối-không AIM-9 Sidewinder để phòng vệ. Và để răn đe hạt nhân, nó có thể mang theo bom hạt nhân B43 hoặc B57.
|
A-6A với các loại vũ khí. |
Có tổng cộng 480 chiếc A-6A được sản xuất (không bao gồm 8 nguyên mẫu) cho tới tháng 12/1970. 223 chiếc A-6A sản xuất cuối cùng trong tổng số 480 chiếc được trang bị động cơ J52-P-8A mới.
Tri Năng