Phóng viên (PV): Ông đánh giá như thế nào về cơ hội và thuận lợi của Việt Nam trước thềm cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0?
Ông Nguyễn Hữu Thái Hoà: Việt Nam đang có thuận lợi vô cùng lớn để tham gia vào cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Bởi Việt Nam đang có một nền tảng hạ tầng và công nghệ thông tin rất tốt. Chỉ trong vài năm trở lại đây, số lượng người sử dụng Smart phone tăng lên một cách chóng mặt; Hệ thống wifi miễn phí được phủ sóng rất nhiều tại các thành phố lớn; Cước 3G, 4G nằm trong top rẻ nhất thế giới. Bên cạnh đó, sự đầu tư mạnh mẽ vào Internet, vào hạ tầng công nghệ của các tập đoàn lớn như Viettel, FPT, VNPT... trong 15 – 20 năm qua đã tạo ra “một thị trường không thể dễ hơn” để làm công nghệ.
Trong 3 năm qua đã có một số điểm sáng dưới góc độ công nghệ 4.0, ví dụ như việc phổ cập hóa Facebook hay thành công của một số doanh nghiệp sử dụng công nghệ như Uber, Grab. Những tập đoàn này đầu tư vào Việt Nam nhờ hệ thống hạ tầng công nghệ 4.0 đã quá sẵn sàng, họ thành công rất nhanh và kiếm được rất nhiều tiền.
Mặt khác, nhân lực Việt Nam không hề thua kém các nước, thậm chí còn thông minh, nhanh nhẹn, linh hoạt hơn rất nhiều quốc gia khác. Đặc biệt, thế hệ trẻ của Việt Nam đã tiếp cận rất nhanh với những công nghệ mới. Điển hình là sự xuất hiện làn sóng khởi nghiệp của các bạn trẻ trong lĩnh vực công nghệ đã sáng tạo ra những phần mềm ứng dụng từ các nền tảng công nghệ số.
|
Công nghệ dần thay thế con người trong nhiều bộ phận.
|
PV: Ngoài những thuận lợi trên, theo ông những khó khăn trong việc áp dụng công nghiệp 4.0 vào trong thực tế hiện nay?
Ông Nguyễn Hữu Thái Hoà: Dựa theo bản đồ nghiên cứu sự chuyển động tài chính, nếu đặt vòng tròn 12 giờ bay xung quanh tâm Hà Nội thì Việt Nam hiện đang nằm trong vùng phủ sóng năm trung tâm tài chính toàn cầu và khoảng 40% dòng tiền trên thế giới. Tuy nhiên, dòng tiền dù vẫn chạy điên cuồng xung quanh, nhưng lại không chịu dừng ở đáy phễu. Nguyên nhân chủ yếu do thế giới liên tục thay đổi tiến lên thì tại Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ.
Trên thực tế, những thay đổi về công nghệ mới chỉ thể hiện khá ít ỏi ở một số tập đoàn công nghệ thông tin và viễn thông, khi họ bắt buộc phải làm nghề gia công phần mềm, ứng dụng, quản lí Internet, hệ thống bảo mật như FPT, VNPT hay Viettel. Tại những đơn vị này, sự thay đổi vẫn còn rất tụt hậu so với các nước trong khu vực. Mặc dù có nhiều nguyên nhân nhưng phần lớn do các rào cản về cơ chế của Nhà nước và tư duy ngại thay đổi.
Cách mạng 4.0 đang vào Việt Nam nhưng vẫn mang nhiều tính đại chúng, phong trào và truyền thông hơn là hỗ trợ thực sự cho nền kinh tế và chưa đóng góp giá trị thực tế vào GDP. Bênh cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ 4.0 đối với người nông dân Việt Nam vẫn còn khó khăn. Do công nghệ này đòi hỏi người nông dân phải sử dụng phần mềm phải thật linh hoạt. Trong khi bản chất của nông nghiệp Việt Nam vẫn phát triển nhỏ lẻ và manh mún, sử dụng lao động thủ công là chính. Đây là một trong những rào cản lớn trong việc đưa công nghệ 4.0 vào nông nghiệp.
Ngoài ra, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ ở hầu hết các lĩnh vực, làm thay đổi phương thức sản xuất, quản trị xã hội, dịch vụ, thương mại…Từ đó tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt, thể hiện rất rõ giữa các doanh nghiệp truyền thống và các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới. Nếu không chủ động, doanh nghiệp nội có nguy cơ thua ngay trên sân nhà khi làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều lĩnh vực ngày càng mạnh.
|
Cách mạng 4.0 cơ hội mang lại sự phát triển kinh tế.
|
PV: Với kỳ vọng đưa ứng dụng công nghệ 4.0 để làm thay đổi bộ mặt kinh tế đất nước thì Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp và người dân cần phải làm gì?
Ông Nguyễn Hữu Thái Hoà: Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những yếu tố mà các nước như Việt Nam đã và đang tự coi là ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không còn là thế mạnh. Trong tương lai, người dân có thể gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm hơn, bởi những lĩnh vực thủ công giờ đây máy móc đều có thể tác động đến, thậm chí làm tốt hơn. Sự phá vỡ thị trường lao động như vậy có thể làm xảy ra những vấn đề gây bất ổn về kinh tế xã hội hay thậm chí là kể cả chính trị. Điều này đòi hỏi con người cần phải không ngừng trau dồi bản thân, khiến mình đứng ở vị trí cao hơn, có thể điều khiển được máy móc một cách thông minh và hợp lí thì mới không bị đào thải giữa rất nhiều công nghệ tiên tiến hiện nay.
Mặt khác, để lực lượng doanh nghiệp được tổ chức lại cần có chính sách hỗ trợ thiết thực của Chính phủ. Đồng thời Chính phủ cần tập trung hoàn thiện cơ chế, thể chế, chính sách, pháp luật để theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế số và công nghiệp thông minh.
Bên cạnh đó chính bản thân thân cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 này cũng có những mặt hạn chế của nó về những bảo mật thông tin cá nhân. Chính điều này đặt ra thách thức cho Việt Nam trong việc cần phải tự nâng cao công nghệ của chính mình để có thể tạo ra một “hàng rào chắn” vững chắc cho những thông tin này.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thực sự là cuộc cách mạng thay đổi Việt Nam nhưng vấn đề không nằm ở công nghệ mà ở cách chúng ta hành động. Nếu chúng ta không muốn thay đổi, không ai có thể giúp được chúng ta.