Hướng dương còn có tên thái dương hoa, triều dương hoa, nguồn gốc từ châu Mỹ nhập vào nước ta và được trồng nhiều nơi khắp các tỉnh. Hướng dương có nhiều công dụng, ngoài trồng làm cảnh, lấy hạt, các bộ phận khác đều làm thuốc chữa bệnh.
Theo kinh nghiệm của y học dân gian, các bộ phận hướng dương có vị ngọt tính ấm, không độc. Dùng hạt chữa các chứng suy nhược, lở ngứa ngoài da, ban sởi, tiêu hóa kém. Lá chữa sốt rét, bỏng nhiệt. Rễ và lõi thân cây chữa sỏi tiết niệu, đau dạ dày. Hoa chứa anthitrin có tác dụng kháng khuẩn và chống bào phân, đang được nghiên cứu chống ung thư.
Theo dược tính hiện đại, hạt hướng dương rất giàu protein và chất béo. Nhân hạt chứa 14% protein, 30,2% dầu, 2,1% gluxit. Dầu hạt chứa nhiều axit béo thiết yếu (trên 56% axit linoleic và linoleic) chất rất tốt bảo vệ hệ tim mạch, và hệ thần kinh. Dưới đây là một số bài thuốc có dùng hướng dương.
Chữa đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi: Nhân hạt hướng dương 20 - 30g sắc nước uống.
Chữa viêm dạ dày – tá tràng: Rễ hướng dương 15 - 20g, tiểu hồi hương 10g sắc uống.
Chữa táo bón: Rễ cây hướng dương tươi 15 - 20g rửa sạch, vắt lấy nước pha với mật ong uống.
Chữa hen suyễn: Đài hoa hướng dương tươi 30 - 50g sắc kỹ lấy nước uống.
Chữa vết bỏng do nhiệt: Lá hướng dương tươi rửa sạch, giã vắt nước cốt bôi lên da vùng bị bỏng.
Chữa sốt rét: Cánh hoa hướng dương phơi khô hãm nước uống thay trà.
Chữa sốt rét, tiểu đường, huyết áp cao: Dùng 2 - 3 bông hoa hướng dương sắc với 20g râu ngô uống thay trà mỗi ngày.
Lương y Phan Thị Thạnh (Hội Đông y TP Vũng Tàu)