Những cây cầu nối đôi bờ chia cắt
Một trong những hình ảnh biểu tượng nhất của chia cắt đất nước trước năm 1975 chính là cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải (Quảng Trị). Sau ngày toàn thắng, cầu Hiền Lương được tu sửa ngay, giữ nguyên những dấu tích lịch sử thiêng liêng để trở thành công trình biểu tượng của hòa hợp dân tộc. Màu sơn xanh – vàng chia đôi cầu được thay bằng màu xanh thống nhất, như một lời khẳng định: non sông đã liền một dải.
 |
Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải trên Vĩ tuyến 17 - Ảnh: Thanh Long - Tạp chí Cửa Việt
|
Ở miền Nam, nhiều công trình hạ tầng trọng yếu bị bom đạn tàn phá cũng được khẩn trương sửa chữa, tiêu biểu là cầu Ghềnh (Biên Hòa) – cây cầu sắt cổ nối liền tuyến đường sắt Bắc Nam – được khôi phục ngay sau 1975 để nối lại mạch máu giao thông của đất nước.
 |
Cầu Ghềnh vào năm 2009. Ảnh Wikipedia |
Tại thành phố Sài Gòn – Gia Định (nay là TP HCM), hàng loạt cây cầu như cầu Chữ Y, cầu Nguyễn Văn Cừ, cầu Mống… cũng được sửa chữa, gia cố để phục hồi lưu thông, thúc đẩy nhịp sống thành phố năng động sau ngày giải phóng.
 |
Cầu chữ Y tại Sài Gòn. Ảnh SDC |
Những tuyến đường hồi sinh
Chiến tranh tàn phá nặng nề hệ thống giao thông miền Nam. Ngay sau ngày 30/4, các lực lượng công binh, thanh niên xung phong và nhân dân đã chung sức sửa chữa tuyến Quốc lộ 1A từ Sài Gòn đi các tỉnh miền Tây, khôi phục cầu đường sắt Thống Nhất để nối liền Nam – Bắc.
 |
Bản đồ Quốc lộ 1a từ Bắc vào Nam. Ảnh Internet |
Đường Trường Sơn – con đường huyền thoại từng chở nặng những đoàn quân trong chiến tranh – được tiếp tục cải tạo để trở thành tuyến giao thông vận tải phục vụ phát triển kinh tế thời bình.
 |
Đường Trường Sơn uốn lượn qua những bản làng, sông suối. Ảnh Trần Thế Dũng - Báo Thanh niên |
Tuyến đường sắt Thống Nhất (Hà Nội – Sài Gòn), vốn bị chiến tranh cắt đứt nhiều đoạn, cũng được nhanh chóng khôi phục. Ngày 31/12/1976, chuyến tàu Thống Nhất đầu tiên mang tên tàu Bắc Nam thống nhất xuất phát từ ga Hà Nội vào ga Sài Gòn, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong việc kết nối hai miền đất nước.
 |
Đoàn tàu Thống Nhất trên hành trình Bắc - Nam. Ảnh: Huy Nguyễn - Báo Quân đội nhân dân
|
Các công trình y tế, giáo dục – gieo mầm cho ngày mới
Ngay sau giải phóng, hàng loạt trường học, bệnh viện tại miền Nam được tiếp quản, sửa chữa và đưa vào hoạt động, để phục vụ công cuộc “học để xây dựng đất nước”.
Trường Đại học Y Dược TP HCM (tiền thân là Đại học Y khoa Sài Gòn) được tiếp quản và đổi mới giáo trình theo hướng phục vụ nhân dân.
 |
Trường Đại học Y Dược TP HCM (tiền thân là Đại học Y khoa Sài Gòn). Ảnh Facebook Trường Đại học Y Dược TP HCM |
Bệnh viện Chợ Rẫy – cơ sở y tế lớn nhất miền Nam – cũng nhanh chóng được chỉnh trang, bổ sung đội ngũ y bác sĩ từ Bắc vào chi viện, trở thành “thành trì” chăm sóc sức khỏe nhân dân sau chiến tranh.
 |
Bệnh viện Chợ Rẫy, TP HCM. Ảnh Internet |
Ở các vùng nông thôn, hàng trăm trường học cấp tốc được dựng lên từ tre, nứa, gỗ để mở lại lớp học cho trẻ em vùng mới giải phóng. Đó là những ngôi trường đơn sơ, nhưng thắp lên ánh sáng hy vọng cho tương lai.
Biểu tượng văn hóa – công trình của hòa hợp và khát vọng
Sau 30/4/1975, những nỗ lực xây dựng thiết chế văn hóa cũng được đẩy mạnh để gắn kết lòng người, hàn gắn những vết thương chiến tranh.
Nhà hát Lớn Hà Nội và Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh (Nhà hát Lớn Sài Gòn) được tu bổ để tổ chức những chương trình nghệ thuật lớn, như một cách kết nối tinh thần Bắc – Nam, khơi dậy lòng tự hào dân tộc.
 |
Nhà hát Lớn Hà Nội và Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh
|
Khu di tích Dinh Độc Lập (nay là Hội trường Thống Nhất) – nơi ghi dấu thời khắc lịch sử trưa 30/4 – cũng được giữ gìn, trở thành địa chỉ đỏ, đón hàng triệu lượt người đến tham quan, tìm hiểu, tri ân lịch sử.
 |
Khu di tích Dinh Độc Lập (nay là Hội trường Thống Nhất)
|
Công trình vĩ đại nhất: Hòa hợp lòng người
Giữa vô vàn công trình được dựng xây và hồi sinh sau ngày 30/4/1975 – từ những cây cầu bắc qua dòng sông từng ngăn đôi đất nước, những tuyến đường mở ra con đường mới cho tương lai, đến những mái trường, bệnh viện khơi nguồn hy vọng cho thế hệ mai sau – có một công trình vĩ đại nhất, trường tồn nhất, không hiện hữu bằng bê tông cốt thép mà được xây dựng bằng máu, nước mắt và khát vọng của cả dân tộc: công trình hòa hợp lòng người.
 |
Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng (ngày 15/5/1975). Ảnh tư liệu
|
Hòa bình lập lại, nỗi đau chiến tranh chưa kịp nguôi ngoai, những con người từng đứng ở hai chiến tuyến đã gác lại quá khứ, vượt lên hận thù để cùng nhau dựng xây đất nước. Đó là sự hòa hợp không chỉ bằng lời nói, mà bằng những bàn tay siết chặt, những giọt mồ hôi đổ xuống trên cùng một công trường, một thửa ruộng, một lớp học nhỏ giữa những miền quê nghèo vừa mới yên tiếng súng.
Hòa hợp lòng người chính là khi những người lính Giải phóng và những người lính Việt Nam Cộng hòa năm nào cùng chung tay kéo lại từng mét đường, trồng lại từng hàng cây, dựng lại từng mái nhà cho nhân dân. Là khi những người mẹ, người vợ, những người từng mất mát người thân ở hai phía, vẫn có thể mở lòng, cùng tiễn con em mình lên những chuyến xe xây dựng vùng kinh tế mới, gieo hạt mầm cho mùa vụ đầu tiên trong hòa bình.
Hòa hợp lòng người không phải một sớm một chiều, mà là một quá trình dài đẫm nước mắt, đòi hỏi sự tha thứ, sự kiên nhẫn, sự rộng lượng vô bờ của cả dân tộc. Đó là công trình lặng thầm, không có bản thiết kế chi tiết, không có ngày khánh thành rộn rã, nhưng mỗi ngày lại thêm vững chắc, thêm vĩ đại, nhờ vào lòng tin, tình thương và ý chí hòa hợp.
Nếu cầu Hiền Lương nối đôi bờ chia cắt, thì “cây cầu hòa hợp” nối những tâm hồn từng chia rẽ. Nếu tuyến đường Thống Nhất nối liền Bắc – Nam, thì “tuyến đường nhân ái” nối liền quá khứ và tương lai, biến những vết thương cũ thành sức mạnh để bước tiếp.
Những công trình mang dấu ấn thống nhất, lớn hay nhỏ, vật chất hay tinh thần, đều cùng chung một sứ mệnh: làm đầy thêm khát vọng hòa hợp, hồi sinh, phát triển; làm dày thêm ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam trong những năm tháng lịch sử hào hùng và nhân văn nhất.
TS Phạm Minh Thế, giảng viên Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà nội cho biết: “Tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đã có tác động lớn đến chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nhất là ở thời kỳ đổi mới. Việc giải quyết tốt hậu quả của chiến tranh, với tinh thần khép lại quá khứ hướng tới tương lai, thực hiện đại đoàn kết quốc gia dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, chúng ta đã từng bước phá thế bị bao vây, cấm vận và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và ngày càng phát triển lớn mạnh”.
Trần Liên