Đường lên cùng
cốc
Trên đỉnh núi, khuất sau những cánh rừng, cây
cối um tùm, sau những phiến đá nằm trơ trọi, bào mòn giữa thời gian, từ nhiều
năm nay, đôi lần du khách lên núi vái Phật bắt gặp một vị tu hành ngồi khiết đà,
nhưng không một ai có thể hiểu tường tận về câu chuyện quá khứ đoạn tuyệt giang
hồ của vị tu hành ẩn danh này.
Men theo triền rừng không một bóng người, tôi
cố dò dẫm bám theo từng lối mòn, lối cỏ mọc, tay bám vào vách núi đầy rêu phong,
đôi chân mỏi nhừ tìm hướng dẫn lên cốc, nơi sư thầy Thích Minh Thủy tu hành.
Đường lên núi Thị Vãi uốn lượn thông đến các dãy núi cao và xa hút tầm
mắt....
Dọc đường lên cốc, không gian tịch liêu, âm
u đến đáng sợ. Tiếng chim bay sải cánh về chiều, muông thú lạo xạo trong các hốc
cây, bụi rậm, tạo cho tôi cảm giác ớn lạnh.
Quanh co gần cả chiều, cuối cùng đến một hẻm
núi vắng lạnh, tôi không thể tin và không thể mường tượng nổi, vị tu hành tuổi
đã xế chiều đã ở nơi đây được hơn 13 năm, quyết gắn chặt cuộc đời mình với cảnh
tịch liêu, tách rời khỏi thế sự trần gian.
|
Cốc của sư Thủy đang ngự nằm khuất dưới dãy
đá. |
Giữa cánh rừng âm u, lớp sương xõa lấp trán, ngay
phía trước cốc, nơi sư thầy đang tu hành, sư Thích Minh Thủy hai chân khoanh
hình chữ ngũ, lưng thẳng như đặt vào điểm tựa, đôi mắt nhắm dần đi vào thinh
không.
Mỏm đá cao nhất của đỉnh Thị Vãi, giữa 4 bề chỉ có mây và gió núi,
là sư thầy Minh Thủy chọn làm nơi đặt cốc để tu tập. Sư tự hào ví đây là điểm
nối giữa hai múi trời và đất, nơi chưa thoát trần thế nhưng cũng chớm đến cảnh
tiên.
Sư Minh Thủy có 3 nơi ngồi thiền. Mỏm đầu tiên
nằm hướng Đông Bắc nhỉnh hơn, có thể trông thấy toàn bộ núi non, còn mỏm phía
Nam, lớn nhưng thấp hơn bao quát toàn bộ đất Vũng Tàu.
|
Sư thầy Thích Minh Thủy ngồi thiền bên vách đá
gần cốc |
Trên hai chỏm đá cao ngất ấy, tạo hóa vô tình
đặt hai hòn thạch khổng lồ, nhìn xa trông như đấng tiên ông đang chuẩn bị cáo
trần bay về trời.
Nơi thiền cuối cùng là chiếc hang độc đáo ngay
trong nhà. Chỉ vỏn vẹn lọt thân người, nhưng vào trong ngày nóng vẫn mát như
được được phả hơi nước, ngày lạnh lại ấm như được trùm chăn, nên được sư ví như
“cỗ máy điều hòa” mà tạo hóa ban tặng.
Chỗ sư ngồi thiền, dù trên đá hay trong hang
đều nhẵn thín và trơn bóng như mặt gỗ mun. Gan và mu bàn chân nơi tiếp đất chai
lên, cứng như miểng đá chăm được mài, sư gọi vui, đó là đế dép (ông không đi
dép). Quanh năm chỉ cần một dải áo cà sa màu nghệ, vắt lên thân hình xương xẩu
nom khổ hạnh, vậy mà bao giờ tinh thần sư cũng thanh thản, tươi cười như đang
hoan hỉ trong thế giới cực lạc.
Người ta bảo, nếu muốn đạt được dung mạo
như thế, chỉ có những ai chưa từng vấy bụi trần, thành tâm, đồng thời có công
năng tu tập lâu dài mới có được. Thế nhưng, sư Thích Minh Thủy lại như một ngoại
lệ. Trước khi trở thành vị chân tu, ông từng là một kẻ giang hồ chọc trời khuấy
nước, gây bao tội lỗi.
Vết trượt tội
lỗi
Ngồi tĩnh lặng trước cốc, hướng đôi mắt xa xăm
chiếu vào màn đêm đặc quánh sương mờ phủ khắp, sư thầy bảo, mỗi lúc tâm hồn còn
vướng bận trần gian, thì đây là cách để lòng xóa đi được ưu phiền, gột rửa tâm
can nhẹ nhàng hơn.
Hồi tưởng lại cuộc đời mình, sư Thủy nhớ đó đã
là quá khứ đáng để quên, vì mỗi khi ai đó hoặc người quen gợi lại, lòng sư cảm
thấy đau xót vì một thời lầm lỡ.
|
Mỗi khi nhớ lại quá khứ của mình, sư thầy day
dứt, ân hận vì gây ra quá nhiều tội lỗi |
Sư Thích Minh
Thủy có tên khai sinh là Phạm Văn Hưởng, xuất thân trong gia đình truyền thống
nho giáo ở Thái Bình, gia đình di cư vào Nam lập nghiệp. Cha là thầy đồ, nhà chỉ
2 chị em, nên tuy không phải thành phần giàu có, nhưng so với các gia đình khác
thì nhà Hưởng cũng thuộc dạng có của ăn của để.
Cha là một người luôn tỏ ra rất nghiêm khắc,
rất ý thức cho con cái học hành đến nơi đến chốn. Đặc biệt, Hưởng là con trai
độc, nên luôn là niềm kỳ vọng của cả gia đình.
Sinh thời người cha luôn quan niệm, bằng mọi
cách phải dạy Hưởng những khuôn phép mẫu mực của đạo nho xưa như: Tam cương
(khuôn phép mối quan hệ Vua- tôi, Cha- con, Vợ- chồng), Ngũ thường (5 đức thường
có: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín), để làm sao Hưởng trở thành một người hoàn thiện
nhất.
|
Đến giờ ít người biết được vị tu hành ẩn danh
từng có một quá khứ tội lỗi |
Vậy nhưng, ngay từ khi
sinh ra, Phạm Văn Hưởng đã là đứa trẻ rất nghịch ngợm nên thay vì chuyên tâm mài
dùi kinh sử, thì Minh Thủy chỉ vờ vâng dạ trước mặt cho qua chuyện, sau đó là
tìm cách tụ tập đám bạn, thỏa chí ăn chơi.
Chơi nhiều quên học hành, năm lên lớp 10, Hưởng
đã biết bỏ nhà đi bụi. Năm 1970, ngày trường tổ chức kỳ thi tú tài I (để lên lớp
12 ngày nay) thì Hưởng bỏ đi. Lời cha dặn trước khi nhắm mắt rằng phải học thành
người, Hưởng quên bẵng như gió bay.
Không lâu sau, có lệnh tuyển quân của chính
quyền bên kia chiến tuyến, Hưởng nộp đơn tham gia chỉ với ý nghĩ rất thực dụng
vào quân đội được dùng súng tự do, được học võ để đánh người, đặc biệt được ăn
chơi xả láng.
Nhưng vào hàng ngũ lính không được bao lâu, Hưởng đã nghiện
bạch phiến, thứ mà binh lính Mỹ mang sang Việt Nam rất phổ biến lúc bấy
giờ.
Sư Minh Thủy nhớ lại: “Sư chính thức nghiện hút
từ năm đầu tiên nhập ngũ ở Nha Trang, lúc đó mới 17 tuổi. Cuộc đời sư bắt đầu
trượt dài trong bóng đêm tội lỗi từ đó”...