“Anh Sáu Nam” là cách gọi thân mật, gần gũi của cán bộ Khu 9 (Quân khu 9 hiện nay), từ khi Đại tướng Lê Đức Anh còn giữ cương vị Tư lệnh Quân khu 9 (giai đoạn 1969-1973 và 1976-1978). Ông là một nhà chỉ huy quân sự tài năng, đức độ, nhà lãnh đạo kiên trung đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tình hình Khu 9 rất khó khăn. Địch tập trung điên cuồng đánh phá, lực lượng ta chịu nhiều tổn thất, nhiều vùng nông thôn bị mất… Trong bối cảnh đó, anh Sáu Nam được Trung ương Cục miền Nam và Bộ tư lệnh miền điều về làm Tư lệnh quân khu; anh Sáu Dân (tức đồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ) làm Bí thư Khu ủy.
Nhanh chóng nắm chắc địa bàn, nhận định rõ tình hình địch-ta, anh Sáu Nam đưa ra một quyết định táo bạo, đột phá: Để giành lại thế chủ động chiến trường, nhất định ta phải có cho được nhiều lực lượng tập trung! Anh đề xuất với cấp trên và được chấp thuận, nhờ đó Khu 9 đã củng cố, xây dựng và được tăng cường nhiều đơn vị chủ lực cấp trung đoàn; trong đó nổi bật có các đơn vị: Trung đoàn 1 (U Minh), Trung đoàn 3 (Cửu Long), Trung đoàn 20 (Hương Giang), Trung đoàn 10, Trung đoàn 2 (Lộc Ninh…
|
Đồng chí Lê Đức Anh - Tư lệnh Quân khu 9 thăm, động viên các chiến sĩ của Tiểu đoàn Tăng - Thiết giáp của Quân khu 9 tháng 5-1976. Ảnh TL.
|
Lúc bấy giờ, trong nội bộ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 9 cũng có một số ý kiến không tán thành với lập luận Đồng bằng sông Cửu Long không phù hợp cho việc xây dựng lực lượng tập trung cấp trung đoàn. Thực tế diễn ra sau đó cho thấy, quyết định của anh Sáu Nam hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt. Ta đã từng bước giành được thế chủ động, giữ được đất, mở rộng vùng giải phóng.
Cũng với tầm nhìn chiến lược, anh Sáu Nam đã sớm nhận ra ý đồ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong Hiệp định Paris 1973. Từ đó ta đã chủ động tấn công, làm thất bại kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch trên chiến trường Tây Nam Bộ, mà đỉnh điểm là chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch ở Chương Thiện (nay thuộc tỉnh Hậu Giang) trong năm 1973.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí có mặt trên nhiều chiến trường khó khăn ác liệt, chỉ huy, trực tiếp chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như trong cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ở phía Tây Nam Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia đánh đổ tập đoàn phản động Pol Pot - Ieng Xari, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, mở ra công cuộc hồi sinh đất nước, xây dựng lại đất nước Campuchia.
Đặc biệt, trên cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn đầu đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, đồng chí Lê Đức Anh đã cùng tập thể lãnh đạo của Đảng, Nhà nước có nhiều quyết sách quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững và củng cố…
Ở cương vị Chủ tịch nước, nhưng Đại tướng Lê Đức Anh vẫn không quên thăm hỏi những cán bộ dưới quyền một thời của mình mỗi khi có dịp thuận lợi, trong đó có không ít các đồng chí đã rời quân ngũ, trở về với cuộc sống đời thường. “Mấy đứa này hết mình với Tổ quốc - đó là câu mà Đại tướng Lê Đức Anh thường bảo khi gặp lại anh em cùng đơn vị”.
Đồng chí là một đảng viên mẫu mực, có phẩm chất trong sáng, sống trung thực, đoàn kết, khiêm tốn, giản dị.
Trên cương vị công tác, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn trung thành với Đảng, với Tổ quốc, giữ vững và phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản, làm hết sức mình với tư tưởng tiến công, hoàn thành cao nhất nhiệm vụ và trọng trách được giao, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đồng chí là người hoạt động thực tiễn sôi nổi, sâu sát, có hiệu quả, nói đi đôi với làm, có tư duy sáng tạo, có tinh thần quyết đoán, dám chịu trách nhiệm.
Đúng như Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã nói: “Đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đối với tôi, đồng chí Lê Đức Anh là người đồng chí, người bạn thân thiết, gần gũi trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước”.
Theo Đại tá, PGS, TS Trần Nam Chuân / CAND