Tổ hợp tên lửa phòng không tầm xa HQ-9 (Hồng Kỳ -9) bắt đầu được nghiên cứu chế tạo vào những năm 1980 dưới sự chủ trì của Học Viện Công nghệ Quốc Phòng Trung Quốc (thuộc Tổng Công ty Khoa học & Công nghệ Hàng không Vũ trụ Trung Quốc). Ban đầu nó phát triển dựa theo hệ thống tên lửa đối không Patriot của Mỹ thông qua một bên thứ ba nào đó (có thể là Israel).
Tên lửa được thiết kế để phóng trong các ống phóng container hình hộp như Paitriot của Mỹ. Tên lửa sử dụng một động cơ nhiên liệu rắn hai tầng. Tuy nhiên, biến thể đầu tiên của HQ-9 không thực sự thành công, mỗi xe phóng chỉ mang được 2 tên lửa, khả năng cơ động kém và độ tin cậy rất thấp.
Giữa những năm 1990, “vận may” đã đến với Trung Quốc khi Nga đồng ý xuất khẩu tên lửa phòng không S-300PMU1. Với khả năng sao chép “có hạng”, không lâu sau đó Trung Quốc đã hoàn thiện thiết kế HQ-9 với việc sao chép gần như toàn bộ công nghệ (đạn tên lửa, radar, xe phóng) của S-300PMU1 do Nga sản xuất.
|
Đài radar điều khiển hỏa lực HT-233 (giữa) và 2 bên là xe phóng HQ-9 với kiểu xếp ống phóng giống với S-300. |
Khẩu đội của HQ-9 được biên chế gồm: 4 xe phóng với 4 đạn tên lửa/xe; đài radar điều khiển hỏa lực HT-233; xe đài chỉ huy TWS-312 và xe tiếp đạn ND1206. Thông thường thì khẩu đội được dẫn bắn bởi một radar kiểm soát bắn duy nhất. Tất cả các xe đều đặt trên khung gầm xe bánh lốp đem lại khả năng cơ động cao.
Cơ chế dẫn đường “nhái” Patriot
Hệ thống HQ-9 sử dụng phương thức dẫn đường tương tự như Patriot của Mỹ bao gồm dẫn đường quán tính cho pha đầu, từ pha giữa tới pha cuối tên lửa được dẫn đường thông qua một kênh track-via-missile (TVM). Lệnh hiệu chỉnh đường bay được truyền đến tên lửa thông qua một liên kết dữ liệu trung gian với sự tham gia của các trạm điều khiển từ mặt đất.
Theo đó, sau khi phóng, đạn tên lửa của HQ-9 dùng cơ chế dẫn đường hỗn hợp gồm:
- Pha đầu sử dụng hệ thống lái tự động quán tính trên đạn
- Pha giữa sử dụng kết hợp hệ thống lái tự động quán tính trên đạn để chỉnh tầm với lệnh điều khiển vô tuyến từ đài điều khiển mặt đất để chỉnh hướng
- Pha cuối sử dụng lệnh điều khiển vô tuyến từ đài điều khiển mặt đất với phần tử mục tiêu được đạn cung cấp qua cơ chế TVM điều khiển bám sát theo đạn kết hợp với radar bán chủ động để khóa mục tiêu.
Cơ chế dẫn đường TVM hoạt động như sau: Radar của đạn tên lửa bắt bám mục tiêu ở pha cuối bằng cách thu sóng dội từ mục tiêu bị đài mặt đất chiếu xạ, rồi truyền phần tử mục tiêu về đài điều khiển mặt đất, đài kiểm soát bắn mặt đất sẽ tính toán và hiệu chỉnh các tham số về mục tiêu và truyền lệnh điều khiển vô tuyến đến tên lửa.
|
Tên lửa HQ-9 rời bệ phóng trong cuộc tập trận bắn đạn thật của Trung Quốc. |
Đạn tên lửa HQ-9 có chiều dài 6,8 mét, trọng lượng 1,3 tấn, đầu đạn nặng 180kg. Đạn tên lửa được trang bị ngòi nổ vô tuyến cận đích được kích hoạt khi đạn cách mục tiêu 5 km, bán kính diệt mục tiêu của đạn là 35m.
Đạn sử dụng động cơ nhiên liệu rắn một tầng đẩy, miệng phụt của động cơ có khả năng chỉnh hướng phụt tương tự như các loại đạn tên lửa của S-300. Tầm bắn của tên lửa đạt cự ly tối đa tới 150km (biến thể HQ-9B nâng tầm lên 200km).
Trang tin Sinodefence đưa tin rằng, HQ-9 có thể đánh chặn tên lửa đạn đạo ở cự ly xa tối đa 30km. Tuy nhiên tính năng này chưa được kiểm chứng.
Nhìn chung, hệ thống dẫn đường với radar bán chủ động của HQ-9 tồn tại nhiều nhược điểm, khó điều khiển. Điều này đòi hỏi kíp chiến đấu phải được huấn luyện rất kỹ. Trung Quốc đang dự định trang bị hệ dẫn đường với radar chủ động tương tự như S-400 của Nga và Patriot PAC-3 của Mỹ cho các biến thể tiếp theo.
Sao chép “mắt thần” Nga
Hệ thống phòng không HQ-9 sử dụng một radar mạng pha xung phẳng 3D HT-233 để trinh sát, theo dõi mục tiêu. Radar có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly 150km và theo dõi mục tiêu ở cự ky 100km. Tuy nhiên diện tích phản hồi radar RCS mà radar có khả năng phát hiện không được công bố.
HT-233 có khả năng quét góc phương vị 360 độ với góc tà từ 0-65 độ, theo dõi đồng thời 100 mục tiêu và tham chiến với 50 mục tiêu cùng lúc.
Tất nhiên, HT-233 không phải là do Trung Quốc tự thiết kế 100% mà nó được cho là bản sao của radar 30N6E (của hệ thống S-300)
Tuy nhiên, HT-233 có kích thước khá lớn (tổng trọng lượng với khung gầm lên tới 30 tấn). Điều này phản ánh công nghệ sao chép của Trung Quốc chưa hoàn toàn đạt được mong muốn. Đồng thời, điều này cho thấy sự khó khăn trong thiết kế và khả năng tuổi thọ hạn chế trong phục vụ, hệ thống tiêu thụ điện năng rất lớn.
|
Đài radar điều khiển hỏa lực HT-233. |
Bên trong phòng điều khiển rất hiện đại, hệ thống ứng dụng kiểu thiết kế màn hình AMCLD COTS và phần mềm kiểm soát bắn dựa trên việc tổng hợp và lựa chọn chế độ hiển thị mục tiêu, điều này cho phép hệ thống tham chiến cùng lúc với nhiều mục tiêu hơn. Đây là cải tiến quan trọng so với việc sử dụng công nghệ CTR so với S-300PMU của Nga.
Tổ hợp HQ-9 có khả năng sử dụng tương thích cả với các radar theo dõi của Nga, cũng như việc dùng chung các loại đạn tên lửa do Nga sản xuất. Điều này khiến nó có thể triển khai xen kẽ với S-300 tạo nên hệ thống phòng không hoàn hảo hơn.
Trung Quốc đang ráo riết chào hàng biến thể xuất khẩu của HQ-9 có tên gọi là FD-2000 cho Thổ Nhĩ Kỳ cũng như nhiều quốc gia châu Á khác. Đây là một thách thức với hệ thống S-300 của Nga trên thị trường xuất khẩu, bởi suy cho cùng HQ-9 là đứa con lai của S-300 và Patriot. Trong khi giá cả của nó cũng rất phải chăng đúng kiểu Trung Quốc.
Ngày 25/6/2013 vừa qua, Bộ Quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ bất ngờ tuyên bố cơ quan này đang xem xét một cách nghiêm túc về khả năng mua hệ thống phòng không HQ-9 của Trung Quốc để trang bị cho quân đội nước này tuy nhiên quyết định cuối cùng vẫn chưa được đưa ra.
Bình Đức