Thiệt hại kinh hoàng của trận vỡ đập thuỷ điện Bản Kiều
Được xây dựng vào năm 1952 trên sông Hoài Nam thuộc tỉnh Hà Nam, đập Bản Kiều chính là một trong những thủy điện tầm cỡ quy mô lớn đầu tiên của quốc gia này.
Tuy nhiên, vào tháng 8/1975, do ảnh hưởng của siêu bão Nina đổ bộ vào Trung Quốc, khiến lượng mưa đo được trong 3 ngày liên tiếp lên đến 1605,3 mm. Lượng nước mưa quá nhiều khiến con đập Bản Kiều bị vỡ và gây ra thiệt hại cực kỳ nghiêm trọng.
|
Ảnh: Wikimedia. |
Ước tính vụ vỡ đập thủy điện kinh hoàng này đã khiến 171.000 người thiệt mạng (riêng số người chết trong lũ lụt đã lên tới 26.000 người, còn lại tử vong do nạn đói và dịch bệnh ngay sau đó), khoảng 11 triệu người dân khác bị mất nhà cửa khi 5,96 triệu ngôi nhà nhà bị phá hủy.
Ngoài ra, đập Bản Kiều bị vỡ còn cuốn trôi hơn 300.000 con gia súc gia cầm, phá hoại và gây ách tắc cho tuyến đường Bắc Kinh-Quảng Châu, thiệt hại kinh tế ước tính lên tới gần 10 tỷ NDT.
Sự cố vỡ đập Bản Kiều được cho là đã phá hủy đi một nguồn cung cấp năng lượng khổng lồ của Trung Quốc. Cụ thể, với công suất đạt tới 18 GW (tương đương với 9 nhà máy nhiệt điện hoặc 20 lò phản ứng hạt nhân), nhà máy thủy điện này ở Trung Quốc có thể đáp ứng được 1/3 nhu cầu sử dụng năng lượng vào lúc cao điểm của cả Vương Quốc Anh.
Lý do đằng sau sự cố vỡ đập
Đập Bản Kiều nằm trên sông Nhữ ở địa cấp thị Trú Mã Điếm của tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Công trình này, được hoàn thành vào năm 1952, là một phần của chiến dịch “Chế ngự sông Hoài” và các nhánh của nó sau những trận lụt nghiêm trọng xảy ra vào các năm trước.
Đây cũng là công trình cung cấp nước tưới tiêu cho đất nông nghiệp ở lưu vực sông Hoài, khu vực bao gồm một số tỉnh và là nơi sinh sống của 170 triệu người.
Lõi của con đập được tạo thành từ hàng tấn đất sét, phần lớn không thấm nước, được bao bọc bởi một lớp vỏ cát dày. Con đập cao tám tầng, có nhiệm vụ giữ 158 tỷ gallon nước - tương đương 240.000 bể bơi cỡ Olympic - không đổ xuống các ngôi làng bên dưới.
Sau 15 tháng xây dựng, đập Bản Kiều hoàn thành vào năm 1952 và được các kỹ sư Liên Xô gia cố lại. Con đập này được các quan chức chính phủ gọi là "đập sắt" - đủ rộng, đủ rộng và đủ vững chắc để chịu được lũ lụt kéo dài 100 năm và thậm chí 1.000 năm.
Tuy nhiên năm 1975, đập Bản Kiều đã bị cơn bão Nina tấn công với lượng mưa lớn, lên tới 63 inch (khoảng 1600mm).
Bão Nina khiến con đập Shimantan ở thượng nguồn sông Hoài đã bị vỡ trước, tạo ra một bức tường nước khổng lồ dội vào đập Bản Kiều. Nửa giờ sau, đập Bản Kiều đã bị đổ sụp và khiến hàng trăm nghìn người mất mạng.
Các chuyên gia cho rằng, chính những sai phạm trong quá trình xây dựng đập Bản Kiều đã dẫn tới thảm hoạ vỡ đập kinh hoàng.
Ông Chen Xing, nhà thuỷ văn người Trung Quốc tham gia xây dựng đập Bản Kiều, từng bày tỏ sự lo lắng về chính sách xây đập của chính phủ. Ông cảnh báo rằng việc xây dựng quá nhiều các đập và hồ chứa có thể khiến mực nước ngầm ở Hà Nam vượt quá mức an toàn và dẫn đến thảm họa.
Ông cũng đã đề nghị xây 12 cửa xả cho đập Bản Kiều nhưng ý kiến này đã bị gạt đi và dự án chỉ có 5 cửa xả.
Sau đó, những sai phạm kỹ thuật” ở con đập ngày càng gia tăng. Các công nhân đắp đập không có kinh nghiệm xây dựng hồ chứa. Các vết nứt hình thành trong năm cửa cống mà chính phủ đã cho phép, cũng như trong chính con đập.
Các vết nứt cuối cùng đã được khắc phục với sự hướng dẫn của các kỹ sư Liên Xô, nhưng không có sự bảo dưỡng hoặc kiểm tra thường xuyên để xác định xem con đập được sửa chữa có thể chịu được một trận mưa đại hồng thủy hay không?
|
Mặt cắt ngang của đập Bản Kiều. |
Kỹ sư Dan Wade, chuyên gia về cơ sở hạ tầng tài nguyên nước tại GEI Consultants ở California (Mỹ) cho biết: "Bạn phải nghĩ về các con đập như những sinh vật sống cần được chăm sóc suốt đời. Nhưng với đập Bản Kiều, theo tất cả tài liệu, hồ sơ hầu như không có bất kỳ sự bảo dưỡng nào".
Theo chính phủ Trung Quốc, đập Bản Kiều được thiết kế dựa trên tiêu chuẩn tần suất lũ 1.000 năm một lần tương ứng lượng mưa 300 mm/ngày. Tuy nhiên, thực tế thì trận lũ với tần suất 2.000 năm một lần đã xảy ra. Vì thế, đập Bản Kiều khi đó phải hứng đến 697 tỉ m3 nước, trong khi năng lực được thiết kế chỉ là 492 tỉ m3 nước.
Trong thời gian ba ngày, lượng mưa khoảng 1397 mm thậm chí có lúc lên tới 1600mm đã đổ xuống một khu vực thường chỉ nhận được ít hơn 800mm một năm. Lượng mưa gần bằng một nửa dung tích nước tối đa mà hồ chứa phía sau đập Bản Kiều ban đầu được thiết kế để chứa. Lượng nước đó đã nâng mực nước của hồ chứa lên 370 feet (khoảng 113m), hoặc cao hơn khoảng 14 feet (khoảng 4,3m) so với mức mà tường nước của đập có thể giữ lại.
Tại thời điểm đó, con đập đang bị đe dọa nghiêm trọng. Wade cho hay: "Đập đất cũng an toàn như đập bê tông nếu chúng được xây dựng đúng cách. Nhưng một con đập bằng đất có một điểm yếu cơ bản, đó là phải tránh làm tràn đập bằng mọi giá. Nước chảy qua một con đập bằng đất sẽ cuốn trôi vật liệu cát, đất sét hoặc đất ban đầu ở đỉnh của con đập, sau đó xói mòn dần thêm, dẫn đến sụp đổ".
Khi cơn bão đầu tiên ập đến, đáng lẽ xả nước lũ của sông Nhữ phải được xả qua các cửa cống. Thế nhưng ban đầu, những người điều hành đập được yêu cầu đóng cửa. Theo giải thích lúc đó, các cửa vẫn chưa được mở để giảm thiểu lũ lụt nghiêm trọng ở hạ lưu vốn vốn đang càn quét khi luồng bão đổ bộ qua tỉnh Hà Nam. Vào thời điểm tình hình trở nên nghiêm trọng, các đường dây liên lạc đã bị cắt đứt bởi cơn bão. Không có thông tin, các nhà điều hành của đập Bản Kiều đã đợi quá lâu để mở 5 cửa xả lũ. Khi đó, những cửa xả lũ này đã bị chặn một phần bởi phù sa tích tụ khi bão ập tới.
Khi đập Bản Kiều vỡ, con nước với vận tốc lên tới 50km/h ào về phía thung lũng bên dưới, cuốn đi 62 con đập khác như hiệu ứng domino. Trong vài phút, toàn bộ các làng mạc với hàng nghìn cư dân bị nhấn chìm.
Thảm hoạ vỡ đập đã cướp đi sinh mạng của khoảng 171.000 người, giao thông bị phá hủy hoàn toàn, làm hàng triệu người bị cô lập.
Thảo Nguyên (Theo Popularmechanics)