Nỗi sợ thuồng luồng và tục xăm mình của người Việt
Nỗi
ám ảnh về loài thuồng luồng đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử Việt
Nam. Thần thoại của người Việt từng đề cập đến cuộc chiến giữa Lạc Long
Quân và loài thuồng luồng, nhưng sự xuất hiện chính thức của thuồng
luồng trong sử sách có lẽ bắt đầu từ thời kỳ Hùng Vương.
Tác
phẩm Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại như sau: Thời Vua Hùng dân ở rừng
núi thấy ở sông ngòi khe suối đều có tôm cá, nên rủ nhau đi bắt cá để
ăn, thường bị thuồng luồng làm hại, đến thưa với vua. Vua nói: Người man
ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét
khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực
vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại
nữa.
Như vậy, tục xăm mình của người Việt bắt nguồn từ nỗi sợ
hãi loài thuồng luồng. Theo quan niệm của người xưa, vẽ hình thủy quái
lên mình vừa là cách để thị uy với các sinh vật sống dưới nước, vừa khiến
cho các loài thủy quái lầm tưởng con người là đồng loại nên sẽ không làm
hại.
|
Thuồng luồng là một sinh vật bí ẩn và đầy đáng sợ trong tâm thức người Việt. Ảnh minh họa.
|
Trên
một bình diện rộng hơn, có thể coi loài thuồng luồng là biểu tượng cho
nỗi khiếp sợ mang tính vô thức của người Việt trước sức mạnh vĩ đại của
sông nước, và tục xăm mình là một liệu pháp tâm lý để chiến thắng nỗi sợ
này.
Tục xăm mình của người Việt được duy trì đến hơn 1.000 năm, phải đến thời vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) mới chấm dứt.
Triều Trần cũng là thời đại mà sức mạnh thủy quân của người Việt đạt đến đỉnh cao trong lịch sử.
Thuồng luồng đầu thai làm hoàng tử nhà hậu Lê
Theo
lời kể từ một số thần phả, nàng Nguyễn Thị Hạo là con của một cặp vợ
chồng ở đất Bồng Lai (Đan Phượng, Hà Nội ngày nay), đến tuổi trăng tròn
có sắc đẹp chim sa cá lặn. Một hôm, Vua
Lý Thánh Tông (1054 – 1072) ra ngoại thành du ngoạn, nàng Hạo khí đó 10 tuổi cũng cùng dân chúng đứng bên đường đón vua.
Lý
Thánh Tông nhìn thấy cô gái xinh đẹp bỗng nảy sinh cảm tình, liền sai
quan đến thăm hỏi và rước bà về cung. Nhà vua không có gì phải phàn nàn
về Nguyễn Thị Hạo, trừ việc ở bên vua 4 năm mà nàng vẫn không có con.
Một
ngày nóng bức, nàng Hạo cùng các thị nữ ra tắm ở hồ Tây. Bỗng trời đất
tối sầm, nước hồ cuộn sóng, và một con thuồng luồng dài hơn 10 thước
xuất hiện, ôm quấn lấy bà và phun rớt rãi đầy người, có mùi thơm. Ngay
sau đó giông tan, con thuồng luồng cũng biến mất. Nàng nói hết sự thật
với vua khi trở về cung.
Đêm đó, vua mơ thấy một người từ trên
trời xuống nói rằng ba năm sau sẽ có giặc đến xâm lấn, Hoàng đế đã sai
thủy thần ra đời, đầu thai vào làm con nhà vua, để sau này dẹp giặc cứu
nước.
Từ đó, nàng Hạo có mang và sau 13 tháng thì sinh một người
con trai thân hình to lớn, sau lưng có 28 vết hằn trông như vẩy rồng…
Cậu bé được đặt tên là Hoàng Lang.
Một thời gian sau đó, giặc Vĩnh
Trinh nổi lên làm loạn ở vùng núi phía Bắc. Khi nghe tin, Hoàng Lang
bỗng nhiên ngồi dậy, cất tiếng gọi mẹ và đòi được cấp voi và cờ để đi
đánh giặc. Khi mọi thứ được vua cho mang đến đủ cùng 5.000 binh sĩ,
Hoàng Lang liền nghiêng mình lắc mạnh, hóa thành chàng trai vạm vỡ. Ngay
sau đó chàng cưỡi voi ra trận và đánh tan quân giặc.
Mấy tháng
sau chiến thắng, vua có ý định nhường ngôi cho Hoàng Lang nhưng chàng từ
chối. Sau đó ít lâu, Hoàng Lang xin vua cho trở về thủy quốc, vốn là
nơi bản quán của mình. Sau khi làm lễ bên hồ Tây, chàng hóa thành một
con thuồng luồng lớn và biến mất dưới làn nước sâu thẳm…
Học trò của cụ Chu Văn An hóa thuồng luồng
Theo
sách Lĩnh Nam Chích Quái, khi danh nho Chu Văn An (1292–1370 ) mở
trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số đó
có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng, được thầy khen là
chăm chỉ. Điều lạ là không ai rõ tông tích người này ở đâu.
Chu Văn An bèn cho người theo dõi thì thấy người học trò này cứ đến khu đầm Đại thì biến mất, mới biết đó là một thủy thần.
Năm
đó đại hạn, mùa màng thất bát, dân tình đói khổ. Thương dân tình, Chu
Văn An liền gọi chàng thư sinh là thuỷ thần đến khuyên bảo có cách gì
giúp dân.
Người học trò mới đầu ngần ngại, sau đứng ra xin nhận
và nói với thầy: " Luật trời rất nghiêm nhưng lời thày bảo cũng rất
trọng. Trái ý trời không thể tránh khỏi tội nhưng huỷ thân mình để hoàn
thành điều nhân, lời dạy của thánh nhân từ xưa không thể bỏ, nay sao dám
chối từ… Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để
giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho".
Sau
đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và
lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên
lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn,
cứu nguy cho cả một vùng rộng lớn khỏi hạn hán.
Đêm hôm ấy có
tiếng sét và đến sáng hôm sau mọi người phát hiện thấy một xác thuồng
luồng lớn nổi lên ở đầm. Chu Văn An biết rằng đó là học trò mình bị trời
phạt nên khóc thương và sai học trò làm lễ an táng. Nhân dân các làng
lân cận cũng đến giúp sức và sau này đưa vào đình thờ, chính là đình
Linh Đàm ở phía Nam Hà Nội ngày nay.
TIN BÀI LIÊN QUAN
BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU
Hoàng Phương