Đa u tủy xương còn gọi là bệnh ung thư dòng tế bào, gây ra u có tính chất khu trú hoặc lan tỏa trong tủy xương. Có khoảng 50% bệnh nhân bệnh đa u tủy xương bị tổn thương thận.
Bệnh khởi phát thường một vài tuần hoặc vài tháng đầu, bệnh nhân thấy mệt mỏi, suy nhược, gầy sút, kém ăn, đau xương nhẹ ở các xương dẹt như xương sườn, xương cột sống, nhức đầu, đau các khớp. Khi ở giai đoạn toàn phát, bệnh nhân toàn thân suy sụp, đau xương, thường đau cột sống thắt lưng, đau vùng xương sọ, xương ức, đau liên tục, thuốc giảm đau không làm dịu được cơn đau, có thể có lách to, gãy xương tự phát.
Bệnh có thể có biến chứng nhiễm khuẩn phổi, nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Biến chứng thần kinh gặp khoảng 40% số bệnh nhân, do chèn ép tủy gây liệt 2 chi dưới, liệt các dây thần kinh sọ, rối loạn tâm thần. Biến chứng máu dẫn đến suy tủy, chảy máu, tăng axit uric do suy thận và hóa trị liệu. 90% người bệnh được phát hiện khi chụp X-quang xương cột sống, xương chậu, xương sườn.
Tổn thương cơ bản là mất chất vôi tạo thành các hình khuyết tròn hoặc bầu dục. Tùy theo số lượng và kích thước các ổ khuyết xương người ta mô tả là hình tổ sâu hoặc tổ ong. Tuy nhiên, người bệnh cần làm các xét nghiệm huyết họ, xét nghiệm tủy đồ, xét nghiệm huyết thanh, nước tiểu để chẩn bệnh một cách chính xác nhất.
|
Bệnh đa u tủy xương còn gọi là bệnh ung thư dòng tế bào, gây ra u có tính chất khu trú hoặc lan tỏa trong tủy xương. Ảnh minh họa. |
Người bệnh đa u tủy xương thường bị tổn thương thận. Hầu hết thận có trụ lớn trong ống thận, nên còn được gọi là bệnh thận trụ do đa u tủy xương. Trụ ở trong lòng ống thận gây ra teo ống thận và xơ hóa tổ chức kẽ thận. Tổn thương thận do đa u tủy xương có thể gặp các loại hoại tử ống thận cấp, xơ hóa cầu thận dạng hạch, viêm cầu thận tăng sinh, lắng đọng canxi trong tổ chức kẽ thận, lắng đọng chất dạng tinh bột ở thận. Người bệnh gặp suy thận cấp khi có tình trạng mất nước, tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch để chụp X-quang.
Suy thận mạn, tiến triển suy thận nhanh cũng có thể gặp khi mất nước, nhiễm khuẩn, tăng canxi máu, dùng các thuốc hại thận. Đây là bệnh ác tính, điều trị có thể duy trì thời gian sống trong khoảng 6 tháng đến 3 năm. Mục tiêu điều trị là ngăn chặn sự ác tính, làm giảm các triệu chứng bệnh, giảm sản sinh protein. Người bệnh được điều trị chủ yếu là hóa trị liệu hoặc thay huyết tương. Nếu suy thận nặng phải điều trị suy thận vừa điều trị hóa chất. Nếu nồng độ canxi máu quá cao cần lọc huyết tương. Nếu có nhiễm khuẩn thì dùng kháng sinh...
PGS.TS Hà Kiệm (giảng viên Bộ môn Tim - Thận - Khớp, Học viện Quân y)