Tại cuộc họp báo quốc tế về việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức ngày 7/5 tại Hà Nội, ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã có những phân tích khá chi tiết về nguồn tài nguyên, khả năng khai thác dầu khí ở vùng biển mà Trung Quốc đưa giàn khoan vào.
Theo ông Hậu, vùng biển mà phía Trung Quốc đang tiến hành tranh chấp, hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 cách phía Nam đảo Tri Tôn 17 hải lý (30km), cách đảo Lý Sơn ở phía Đông khoảng 180 hải lý. Khu vực này có độ nước sâu trung bình khoảng 1.000m nên Trung Quốc phải dùng giàn khoan nửa nổi nửa chìm. Giàn này có 2 cách để định vị, hoặc là dùng neo, hoặc dùng các chân vịt để định vị tại vị trí khoan.
|
Theo nghiên cứu, nơi đây chỉ có một ít khí đốt tự nhiên và hoàn toàn không có dầu mỏ. |
“Về tiềm năng dầu khí tại khu vực này, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã thực hiện nhiều đợt khảo sát, không phải bây giờ mới khảo sát mà kể từ thời trước nữa. Năm 1972, chúng ta còn thuê một công ty của Mỹ để khảo sát tiềm năng dầu khí tại đây. Sau đó thì chúng ta xuất bản tài liệu. Những nghiên cứu của Petro Việt Nam về tiềm năng dầu khí tại khu vực này đã có, nhiều nghiên cứu còn được in ra.
Tổng quan mà nói thì khu vực này tiềm năng dầu khí không cao, tuy nhiên vấn đề này hiện vẫn chưa được đánh giá kỹ vì chúng ta chưa đủ tài liệu và cũng chưa khoan. Tại sao bây giờ Petro Việt Nam chưa khoan vì đây là vùng nước sâu và chúng ta chưa có thiết bị để khoan ở khu vực này. Phần lớn các hoạt động thăm dò, đặc biệt hoạt động khai thác dầu khí thì chúng ta thực hiện ở vùng biển nông hơn. Chúng tôi vẫn có kế hoạch thăm dò khai thác dầu khí ở những vùng biển xa hơn, kể cả khu vực lô 142-143.
Tuy nhiên, để khai thác dầu khí ở một khu vực, chúng ta phải xây dựng rất nhiều công trình cố định và thực hiện rất nhiều công việc, các hoạt động dầu khí liên quan như thăm dò thêm… Để khai thác được dầu khí ở vùng biển nước sâu thì đòi hỏi một chương trình đầu tư rất tốn kém. Chúng tôi tin rằng trong tương lai gần không ai có thể khai thác được dầu khí ở khu vực này”, ông Hậu cho biết.
Mới đây nhất, kết luận của Cơ quan Năng lượng Mỹ (EIA) về tiềm năng dầu khí tại khu vực tranh chấp trên Biển Đông cũng khẳng định thêm những phân tích trên của Petro Việt Nam. Theo đó, EIA cho biết, các khu vực tranh chấp ở Biển Đông ít có dầu khí và thậm chí quần đảo Hoàng Sa hoàn toàn không có dầu mỏ.
Theo EIA, không giống như các bộ phận khác của Biển Đông, quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không có trữ lượng lớn về tài nguyên dầu khí. Theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, sở hữu các đảo có người sinh sống (và có đời sống kinh tế riêng biệt) có thể mở rộng khả năng tiếp cận độc quyền của một quốc gia đối với các nguồn năng lượng xung quanh đảo.
Phân tích của EIA cho thấy, hầu hết các khu vực chứa dầu khí đã được phát hiện là các khu vực không có tranh chấp và ở gần bờ của các quốc gia ven biển. Nguồn tin công nghiệp cho thấy, hầu như không có dầu và chưa đầy 4 tỷ m3 khí đốt tự nhiên ở các khu vực gần quần đảo Trường Sa. Thậm chí, quần đảo Hoàng Sa chỉ có một ít khí đốt tự nhiên và hoàn toàn không có dầu mỏ.
Nếu dự báo của EIA là chính xác, người ta tự hỏi vì sao Trung Quốc lại “cố sống, cố chết” đưa giàn khoan nước sâu Hải Dương 981 đến khu vực ít tiềm năng dầu khí gần quần đảo Hoàng Sa và nằm trên thềm lục địa Việt Nam – bất chấp chi phí vận hành, bảo vệ vô cùng tốn kém cũng như vấp phải phản ứng dữ dội của Việt Nam và sự lên án của cộng đồng quốc tế?
Liệu có phải đây là bước thăm dò đầu tiên trong mưu đồ “độc chiếm Biển Đông”. Nếu bước đầu tiên này không bị ngăn chặn, một ngày nào đó, Trung Quốc sẽ ngang nhiên tiến hành khoan thăm dò và khai thác (với sự tháp tùng của tàu chiến) ở những khu vực không có tranh chấp và gần bờ của các nước ven Biển Đông – với mưu đồ thay đổi hiện trạng “ biến không có tranh chấp thành tranh chấp và biến cái của người khác thành của mình”.
Minh Hiếu (Tổng hợp)