- Tên gọi gợi vẻ êm đềm, bình an, nhưng trên thực tế, cung Khôn Ninh – nơi ở của các bà hoàng đời nhà Minh và đầu đời Thanh, Trung Quốc chẳng bình yên chút nào.
Theo trang Baidu, được xây dựng từ năm 1420, tức năm Vĩnh Lạc thứ 18 triều Minh, tới nay, cung Khôn Ninh đã có lịch sử tồn tại hơn 500 năm. Đây là một trong ba cung trong Tử Cấm Thành. Vào năm 1514, tức năm Chính Đức thứ 9 và năm 1596, tức năm Vạn Lịch thứ 24, cung bị phá hủy bởi hai lần hỏa hoạn. Tới năm Vạn Lịch thứ 33 (năm 1605), Khôn Ninh được xây lại.
|
Cung Khôn Minh. |
Công cuộc trùng tu cung vẫn tiếp diễn vào những khoảng thời gian sau đó. Cụ thể, vào năm Thuận Trị thứ hai, tức năm 1645, Khôn Ninh được trùng tu. Đến năm thứ 12, tức năm 1655, người ta lại mô phỏng theo cung Thanh Ninh ở Thẩm Dương để sửa sang lại nơi này. Năm 1797, tức năm Gia Khánh thứ hai, khi cung Càn Thanh gặp hỏa hoạn, ngọn lửa đã liếm xém mái hiên trước điện, khiến công cuộc trùng tu Khôn Ninh phải tiến hành vào năm Gia Khánh thứ ba, tức năm 1798. Nếu cung Càn Thanh biểu trưng cho âm tính, thì cung Khôn Ninh lại là biểu tượng của dương tính. Cả hai biểu thị cho ý nghĩa: “Âm dương kết hợp, thiên địa hợp bích”.
Trong 277 năm thời nhà Minh trị vì Trung Quốc, những bà hoàng là vợ đầu của vua dù sống trong cung Khôn Ninh ở hoàng cung Nam Kinh hay hoàng cung Bắc Kinh hoặc ở cung điện khác đều có số phận vô cùng bi thảm, chẳng được hưởng phú quý như thầy tướng số đã dự ngôn, cũng chẳng hạnh phúc viên mãn như những gì bách tính tưởng tượng. Bi kịch tương tự cũng diễn ra với các hoàng hậu đầu của vua triều Thanh - triều đại kéo dài 296 năm trong lịch sử phong kiến. Bất luận là sống trong cung Hách Đồ A Lạp Hãn tại Hưng Kinh (nay thuộc tỉnh Liêu Ninh), cung Thanh Ninh tại hoàng cung Thịnh Kinh, hay cung Khôn Ninh tại hoàng cung Bắc Kinh, cuộc đời họ cũng chẳng sáng sủa gì.
Mã hoàng hậu, vợ đầu của Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương là người Túc Châu (tức thành phố Túc Châu, tỉnh An Huy ngày nay). Khi Chu Nguyên Chương xưng đế, bà được sắc phong ngôi hậu, thường gọi là Mã hoàng hậu. Vốn là người chịu nhiều khổ nạn, trải qua chiến tranh, bà hoàng này được sử sách ca tụng là “Nhân từ hữu trí giám,hảo thư sử”, tức người có tính cách nhân từ, có trí tuệ lại chăm đọc sách. Bà đã giúp chồng cai quản cả 6 cung.
Nhưng đáng tiếc thay, Chu Nguyên Chương thọ 71 tuổi, Mã hoàng hậu chỉ sống tới 51 tuổi đã lìa xa cõi đời. Điều ấy có nghĩa, bà mất sớm hơn chồng tận 20 năm. Tác giả Nghê Phương Lục trong cuốn “Những chuyện bí mật của bậc đế vương” tiết lộ, Thái tổ Chu Nguyên Chương vốn là một người chồng hết sức mô phạm. Ông và Mã hoàng hậu sống trọn nghĩa vẹn tình phu thê suốt mấy chục năm. Sau khi Mã thị qua đời, vị hoàng đế vẫn chưa lập tân hậu. Sự thủy chung ấy khiến thiên hạ phải nể phục mà ngợi khen hết lời. Dẫu gì, đó cũng là niềm an ủi lớn lao với bà hoàng mỏng phận ở nơi chín suối.
Lại nói, Từ hoàng hậu đời vua Vĩnh Lạc đế Chu Đệ vốn là con gái của Trung Sơn Vương Từ Đạt - một đại tướng quân trong triều đình. Ban đầu, bà ta chỉ là Yến Vương phi, nhưng sau khi Yến Vương đoạt được ngôi vua, tức vị xưng đế, bà trở thành Từ hoàng hậu. Tới lúc Vĩnh Lạc đế dời đô về Bắc Kinh, xây nên Tử Cấm Thành, thì bà hoàng này đã lâm bệnh qua đời ngay trước khi vào cung Khôn Ninh. Năm ấy, bà mới 46 tuổi. Về sau bà được an táng tại Trường Lăng thuộc Thập Tam Lăng ở Bắc Kinh. Từ hoàng hậu là người thông minh hiền thục, biết giữ nguyên tắc, tiếc thay, bà chưa kịp ở trong cung Khôn Ninh đã vội về cõi tuyền đài.
Hồ hoàng hậu thời vua Tuyên Đức Đế Chu Chiêm Cơ cũng có số phận bi thảm vô cùng. Bà là người Tế Ninh, Sơn Đông. Những tưởng một đời được hưởng vinh hoa phú quý, nhưng Hồ hoàng hậu lại phải sống cảnh u uất, sầu bi những năm tháng cuối đời sau khi bị triều đình phế ngôi. Cơ sự do đâu? Sử sách chép rằng, Hồ hoàng hậu không có con, cơ thể lại thường xuyên bị bệnh. Trong khi ấy, Tôn Quý phi lại được vua sủng ái yêu chiều. Hoàng đế đã ra lệnh cho Hồ hoàng hậu phải dâng biểu từ bỏ ngôi vị, nhưng vẫn được lui về sống ở cung Trường An, được phong hiệu là Tĩnh Từ Tiên Sư…Hồ hoàng hậu sau khi viết biểu xin từ ngôi đã sinh ra nghĩ quẩn, thường xuyên u uất, khóc than, sau bị bệnh mà chết, được an táng tại Kim Sơn (tức Tây Sơn).
Hay như Trương hoàng hậu thời vua Thiên Khởi Chu Do Hiệu là người Tường Phù (tức Khai Phong, tỉnh Hà Nam ngày nay), chẳng những không con cái, sớm thành góa bụa vì đấng phu quân mất năm 23 tuổi, mà còn phải chịu kết cục cực bi thảm lúc cuối đời. Khi quân Lý Tự Thành đánh tiến vào Bắc Kinh, bà đã phải tự sát.
Tới thời các hoàng hậu đầu tiên của 12 vị hoàng đế thời nhà Thanh, số phận của họ cũng bi thảm chẳng kém. Hoàng hậu Hách Xá Lý thị thời đại đế Khang Hy Huyền Diệp đã đột ngột qua đời sau khi sinh hạ một quý tử cho vua. Khi ấy, bà mới 22 tuổi. Dẫu rằng, hai người kết hôn khi Khang Hy mới 12 tuổi và mối lương duyên giữa họ bị đánh giá là vì mục đích chính trị, nhưng tình cảm mà Khang Hy dành cho người vợ đầu tiên của mình quả rất sâu đậm. Đau khổ vì sự ra đi đột ngột của bà, hoàng đế đã nghỉ lâm triều đến tận 5 ngày để lo chuyện hậu sự cho Hách Xá Lý thị. Ông rầu rĩ, khóc thương người vợ bất hạnh ròng rã suốt 20 ngày.
Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị thời vua Ung Chính Dận Chân được phong làm hoàng hậu năm Ung Chính thứ nhất, tức năm 1723, nhưng tới năm Ung Chính thứ 9 (năm 1731) thì qua đời, kết thúc một kiếp người khi chưa tận hưởng phú quý, quyền uy dài lâu như mong đợi.
Chịu chung số phận với những bà hoàng bất hạnh kể trên là Hỷ Tháp Tịch thị thời vua Gia Khánh Ngung Diễm. Năm thứ hai sau khi được sắc phong ngôi hậu, bà ta đột ngột qua đời, quả là không có phúc phận. Trong khi ấy, sau khi Hỷ Tháp Tịch xuống cõi tuyền đài, Gia Khánh đế Ngung Diễm vẫn sống tiếp 24 năm nữa.
Hải Dịu (theo People.com.cn, Baidu.com)