Nói đến sinh vật dài nhất thế giới, ấn tượng đầu tiên của nhiều người là cá voi xanh, là sinh vật sống lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là chúa tể của đại dương, cá voi xanh dài 30 mét nghiễm nhiên bị đẩy vào cuộc thảo luận của sinh vật dài nhất.
Cũng có người đam mê sinh vật biển nói rằng đó là một con bạch tuộc khổng lồ, chiều dài xúc tu của con bạch tuộc có thể đạt tới con số kinh ngạc 60 mét, đương nhiên nó cũng xứng đáng được đề cử là sinh vật dài nhất. Người ta cũng đề cập rằng phải có những sinh vật trong đại dương lâu hơn hai loài này.
Suy cho cùng, sinh vật dưới đáy biển sâu có rất nhiều khả năng, có thể một ngày nào đó con người sẽ tìm được một con cá dài hơn cả cá voi xanh, hoặc những sinh vật khác, những điều này đều có thể xảy ra.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, sự thật luôn tốt hơn lý luận, trong các lĩnh vực mà khoa học nhân loại đã khám phá, bất kể là cá voi xanh hay bạch tuộc, chiều dài cơ thể của nó chẳng là gì so với sinh vật dưới đáy biển sâu.
Câu chuyện cũng bắt đầu từ chuyến thám hiểm của các nhà khoa học dưới đáy biển. Cách đây không lâu, các nhà khoa học thuộc Viện Hải dương học Schmidt đã phát hiện ra một sinh vật kỳ lạ ở vùng biển ngoài khơi phía nam Australia.
Vào thời điểm đó, các nhà khoa học đã lái một con tàu nghiên cứu khoa học ở trên mặt biển của Hẻm núi ngầm Ningaloo ở Úc và các nhà nghiên cứu đã điều khiển tàu lặn không người lái được điều khiển từ xa để tiến hành khảo sát và thám hiểm trong hẻm núi dưới biển sâu.
Trong quá trình đó, họ tình cờ phát hiện ra một sinh vật khổng lồ, ban đầu các nhà khoa học cho rằng đó là một con cá voi xanh, nhưng theo dữ liệu do thiết bị kiểm tra gửi về, kích thước của sinh vật này rất khác với kích thước của cá voi xanh.
Kết quả này ngay lập tức khơi dậy sự quan tâm của các nhà khoa học. Các chuyên gia ngẫu nhiên đã thực hiện phục hồi 1:1 dựa trên dữ liệu được trả về và kết quả là họ đã có một khám phá đáng kinh ngạc.
Nó cũng tạo ra một bước đột phá trong nghiên cứu của họ. Vậy chính xác những sinh vật mà các nhà khoa học đã phát hiện ra dưới đáy biển là gì? Và làm thế nào mà sinh vật này kích thích các nhà khoa học?
Về chiều dài cơ thể
Theo các chuyên gia, khi phát hiện sinh vật này, cả đoàn chỉ nghĩ đó là một con cá voi bình thường, phải đến khi các nhà khoa học đối chiếu, phân tích dữ liệu gửi về mới biết sinh vật này không thuộc loài cá.
Sinh vật này hình thành nhiều vòng đồng tâm từ trong ra ngoài, luồn lách chậm chạp dưới đáy biển. Theo phán đoán của các chuyên gia, loại sinh vật này phải là một loại sứa vòi.
Sứa siphon là một nhóm gồm nhiều cá thể, vì vậy sứa siphon thường rất lớn. Khối lượng sứa ống được các chuyên gia phát hiện ở hẻm núi ngầm Tây Australia thậm chí còn vượt kỷ lục lớn nhất mà nhân loại từng biết.
Theo quan sát, đường kính vòng ngoài cùng của con sứa đã lên tới 15 mét, như vậy chỉ riêng chu vi vòng ngoài cùng của con sứa đã lên tới con số đáng kinh ngạc là 47 mét. Ở đây chúng ta lấy cá voi xanh để so sánh, thông thường chiều dài của cá voi xanh có thể đạt tới hơn 30 mét.
Chu vi ngoài cùng của sứa ống dài hơn cá voi xanh 10 mét, vòng trong của sứa ống có một số sinh vật nên các nhà khoa học dự đoán chiều dài của sứa ống có thể đạt tới 110 mét, tương đương với chiều dài của một tòa nhà chọc trời.
Vậy chính xác sứa siphon là gì? Làm thế nào mà nó phát triển lâu như vậy? Trên thực tế, sứa siphon không thể được gọi là một con duy nhất, mà nên được đưa ra khái niệm "nhóm".
Sứa siphon thuộc nhóm cnidaria, bao gồm các sinh vật đáy biển như sứa, thủy tức và các nhóm san hô, vì vậy sứa siphon hoàn toàn là một sinh vật nhóm.
Tất cả các tế bào sinh sản của sứa vòi đều có nguồn gốc từ cùng một quả trứng được thụ tinh, nhưng các tế bào này dần dần phát triển thành các dạng khác nhau bằng cách hấp thụ chất dinh dưỡng từ mẹ và các tế bào phát triển thành nhiều cá thể độc lập.
Những cá thể này sau khi lớn lên không tách khỏi cơ thể mẹ mà tiếp tục phát triển gắn bó với cơ thể mẹ, ngày càng nhiều cá thể dần dần hình thành nhóm sứa vòi, vì vậy ở một mức độ nào đó, sứa vòi thực chất là nền tảng cho sự chung sống của những sinh vật khác nhau.
Vẻ đẹp của sự cộng sinh
Nhưng nó khác với nhóm sinh học chung. Quần thể san hô thuộc địa chung nơi mỗi cá thể là thành viên của cùng một quần thể, chia sẻ cùng nguồn thức ăn và thói quen sinh trưởng.
Loài sứa siphon thì khác, nó có nhiều dạng cá thể khác nhau và mỗi cá thể có những nhiệm vụ khác nhau, giống như các cơ quan khác nhau trong cơ thể con người.
Các cá thể trong sứa siphon cũng có thể được gọi là bào tử, và những bào tử này có thể được chia thành bào tử động vật và bào tử cố định theo thói quen hoạt động của chúng. Một số bào tử bơi được sắp xếp đều đặn trên đầu sứa siphon.
Nhiệm vụ chính là đẩy sứa ống hút về phía trước thông qua sự co bóp thường xuyên của cá thể và những động bào tử này chỉ có chức năng duy nhất này, một loại động bào tử khác có xúc tu mảnh mai và chủ yếu sử dụng xúc tu để bắt thức ăn.
Những thực phẩm này sau đó được chuyển đến cơ thể người mẹ. Sau khi giới thiệu động bào tử, một số người có thể nghĩ về chức năng của những bào tử bất động đó? Do siphon sứa có thói quen đặc biệt khác?
Sứa siphon có hai loại bào tử, bào tử bơi chịu trách nhiệm bơi lội và ăn thịt tương ứng, trong khi các bào tử bất động khác chủ yếu tạo nên các bộ phận khác của sứa siphon và chịu trách nhiệm cho sự sinh sản và phát triển của sứa.
Hai loại bào tử tạo thành một quần thể siphonophores khổng lồ và cả hai đều không thể thiếu. Kể từ khi Viện Đại dương Schmidt phát hiện ra loại sứa siphon này, nó đã làm dấy lên những cuộc thảo luận sôi nổi trong cộng đồng sinh vật học. Do siphon sứa thuộc về sinh vật cá nhân hoặc các nhóm sinh học?
Đây là một chủ đề thú vị, một chủ đề dường như khó giải quyết bằng sinh học thông thường của con người. Đầu tiên, phân tích lịch sử tiến hóa của loài sứa siphon, tất cả các bào tử của nó đều bắt nguồn từ cùng một quả trứng được thụ tinh.
Coi sự phân chia của bào tử là sinh sản vô tính, thì trứng thụ tinh của sứa siphon là phôi nhân bản, và tất cả các bào tử đều có chung một nguồn nhân bản, vì vậy sứa siphon thực sự là cơ sở của mỗi cá thể độc lập.
Chỉ là trong quá trình tiến hóa lâu dài, sứa siphon cần không ngừng thích nghi với môi trường biển sâu. Bào tử chọn phương thức sinh tồn là cùng tồn tại với cơ thể mẹ trong môi trường khắc nghiệt của biển sâu, điều này cũng hình thành nên phương thức sinh tồn nhóm của siphonophores.
Tuy nhiên, những bào tử này có khả năng tồn tại một mình, vì vậy theo quan điểm sinh học, bào tử cũng có thể được gọi là thực thể sống. Sứa siphon là một nhóm sống bao gồm nhiều cá thể bào tử độc lập.
Nhưng mỗi cá nhân có khả năng tồn tại một mình. Chỉ là trong môi trường phức tạp, những cá thể bào tử bơi lội này khó tồn tại lâu nên bám vào mẹ để sinh sản và lớn lên.
Xét về tập quán sinh sống, sứa là một quần thể khổng lồ do nhiều cá thể độc lập hợp thành, nhưng từ những phân tích cụ thể của từng cá thể thì mỗi cá thể đều có khả năng tồn tại đơn độc nên điều này cũng mang đến những hiểu biết mới cho các chuyên gia sinh học.
Trên thực tế, từ góc độ sinh học của con người, tạm thời chưa thể xác định sứa siphon là cá thể hay một nhóm sống, nhưng chắc chắn rằng sứa siphon là sinh vật dài nhất được phát hiện cho đến nay.
Đây là một khám phá lớn đối với sinh học và nó cho phép các nhà sinh vật học tập trung vào một lãnh thổ chưa được khám phá. Con người đã và đang mò mẫm trong việc khám phá thiên nhiên và liên tục phát hiện ra một số sinh vật chưa từng thấy trước đây.
Theo Lê Dương/Bảo Vệ Công Lý