Nó được phát hiện vào năm 1896 bởi nhà thám hiểm và nhà tự nhiên học người Anh - John Whitehead.
Hình ảnh của đại bàng Philippines được ví với một sinh vật thần thoại là Griffin.
Đại bàng Philippine có bộ lông màu nâu đậm và trắng.
Đại bàng trưởng thành có chiều cao từ 86-102cm, nặng 4,7-8kg. Con mái thường lớn hơn con trống.
Chân của đại bàng Philippine to, có màu vàng nổi bật với vuốt màu đen. Mỏ màu xám hơi xanh cùng với đôi mắt xanh xám giống chim ưng.
Sải cánh của đại bàng Philippine dài từ 184-220cm, đuôi dài 50cm.
Đây là loài chim đặc hữu ở Philippines, được tìm thấy ở phía Đông các đảo chính là Luzon, Samar, Leyte và Mindanao (số lượng nhiều nhất ở Mindanao).
Đại bàng Philippine sống ở vùng rừng rậm nhiệt đới núi cao và dốc với độ cao từ 1.800m trở lên.
Thức ăn chủ yếu của đại bàng Philippine là khỉ, chim, cáo, cá, thằn lằn, rắn, lợn con, chó nhỏ…
Năm 2010, chúng bị liệt kê vào loài cực kỳ nguy cấp với số lượng chỉ từ 180 tới dưới 500 con còn lại ở Philippines.
Pháp luật ở Philippines cũng quy định phạt tù rất nặng đối với những hành vi săn bắt loại đại bàng này.
Tuổi thọ trung bình cho một con đại bàng Philippines ở môi trường tự nhiên được ước tính là 30-60 năm.
Đại bàng Philippine mái bước vào tuổi sinh sản lúc 5 tuổi còn con trống là 7 tuổi.
Đại bàng Philippine thường sống thành cặp, khi con còn lại chết đi chúng thường sẽ kiếm con khác thay thế.
Đại bàng Philippine thường đẻ 1 quả trứng duy nhất và ấp từ 58-68 ngày. Cả 2 sẽ cùng nhau chăm sóc con nhỏ. Đại bàng non sẽ được cha mẹ của chúng chăm sóc 20 tháng trước khi ra ở riêng.