Hồn thiêng sông núi, Hồn thiêng dân tộc
Đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc Việt Nam đã được kết tinh thành một nét đẹp văn hóa qua hàng nghìn năm lịch sử. Lời dặn của Bác "Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" và "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước", hay những tư tưởng trong "Di chúc", chính là lời nhắc vô cùng sâu sắc về đạo lý ấy.
Mà đã là đạo lý thì ở thời đại nào, thế hệ nào cũng luôn đúng, bao gồm cả "thời đại 4.0" với "thế hệ Gen Z", hay cho đến mãi về sau.
Đó là lý do chúng tôi mở tuyến bài "Hồn thiêng sông núi, Hồn thiêng dân tộc". Từng bài trong tuyến sẽ như một nén tâm hương nhắc mỗi người hãy nhớ đến anh linh của các vị vua hiền, các danh tướng tài ba, các danh nhân khoa bảng, trạng nguyên đầu triều… cho đến các dũng sĩ, liệt sĩ vô danh đã nằm xuống để góp xây nên nền văn hiến hàng nghìn năm dựng nước - giữ nước.
Chúng tôi cũng xin mời quý độc giả khi đọc những bài này hãy lắng lại, để bày tỏ lòng tưởng nhớ, biết ơn của mình đối với các Hồn thiêng sông núi, Hồn thiêng dân tộc - để chúng ta được tròn đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" như lời Bác căn dặn.
|
Sử cũ cho hay, ngày 30 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1497), vua Lê Thánh Tông băng hà ở điện Bảo Quang. Chúng tôi có vài dòng gọi là tri ân công nghiệp trong 37 năm trị vì của vị vua giỏi nước Việt.
Đây cũng là dịp để chúng ta nhìn về tiền nhân với tấm lòng thành kính, ngưỡng mộ về một đấng quân vương được Đại Việt sử ký toàn thư điểm xét là: "Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được".
Với công nghiệp trị nước của vua Lê Thánh Tông (1460-1497), đương thời trong Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại lời bình của sử thần Vũ Quỳnh về vua: "Vua tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài, đại lược, võ giỏi văn hay mà cái học của thánh hiền lại đặc biệt siêng năng, tay không lúc nào rời quyển sách. Các tập kinh, sử, các lịch, toán, những việc thánh thần, không có gì bao quát tinh thông. Văn thơ thì vượt trên cả những khuôn mẫu của các văn thần […] Người hiền tài chọn được nhiều hơn cả đời vua. Văn võ đều dùng, tuỳ theo sở trường của từng người. Vì thế, có thể sử dựng chính sự, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương rõ ràng, có thể cho người sau noi theo".
Còn với tôi thần nhà Lê sơ, sau khi vua mất, đại diện là Thân Nhân Trung soạn bài tán ca ngợi công đức của đức hoàng đế quá cố, trong đó có đoạn điểm xét công lao của người ngồi ngai vàng:
Giữ báu nắm phù,
Phát lệnh chính vị.
Giữ trung: học tổ,
Dựng cực: thừa thiên.
Nhân bồi hậu thế,
Hiếu kính tổ tiên,
Văn sáng Khuê, Bích,
Học sâu uyên nguyên.
Theo điển, dùng lễ,
Lánh gian, thân hiền.
Trị nước, chín kinh,
Dùng quan: tám bính.
Triệu dân vỗ yên.
Trăm việc chấn chỉnh.
Văn giáo rộng ban,
Vũ công đại định,
Sử sách các đời sau hầu như đều xem thời trị vì của vua Lê Thánh Tông là một chuẩn mực mà noi theo. Dạo thời Nguyễn, cùng là kẻ ngồi ngai vàng trị nước, vua Tự Đức nhìn về tiền nhân cũng phải ngợi ca trong Ngự chế Việt sử tổng vịnh là: "Lê Thánh Tông sáng lập chế độ mới mẻ, văn học và nhân vật bấy giờ rất khả quan; đất đai và bờ cõi nước nhà càng thêm rộng. Vào khoảng niên hiệu Quang Thuận và Hồng Đức, nước nhà trong ngoài đều vô sự, và hàng năm lúa thóc được mùa luôn, cho nên người ta gọi là đời thái bình thịnh trị vậy".
Đến từ phương Tây xa xôi, nhưng khi tìm hiểu sử Việt, những tác giả người Pháp cũng không ngoài mẫu số chung mà nhìn nhận tốt đẹp về vua Thánh Tông. Như Alfred Schreiner trong Abrégé de l'Histoire d'Annam (Đại Nam quốc lược sử) đã không tiếc lời mà khen vua: "Vua nầy công bình, thông minh, oai nghiêm, và cần quyền lắm, người xem xét cùng quy chế mọi việc trong nước lại trúng cách, hơn các vì vương đế khác".
Lại để minh chứng cho sự tài giỏi của vị vua có niên hiệu Hồng Đức, Alfred Schreiner vẫn trong tác phẩm trên, đã dẫn ra hằng hà sa số những việc làm được của vị vua thứ tư nhà Lê sơ: Về hành chính, chia nước làm mười hai tỉnh; về quan chế làm cho nhiệm vụ các quan rõ ràng; về lãnh thổ lập "Hồng Đức bản đồ"; về sử có Ngô Sĩ Liên viết Đại Việt sử ký toàn thư; về nông nghiệp thì khuyến nông, khẩn hoang, khai sông…
Hồng Đức bản đồ. Ảnh: Tư liệu sưu tầm
Trong khi đó tác giả A-B trong cuốn Bắc Kỳ tạp lục đánh giá vua Lê Thánh Tông là "vị vua vĩ đại của nước An Nam", "thực tế là trong thời kỳ trị vì của vị vua này, nhiều thành tựu đã được thực hiện".
Hướng cái đường cứu nước theo dân chủ tư sản với phương cách bạo động, nhưng cụ Phan Bội Châu khi viết Việt Nam quốc sử bình diễn ca, nhìn nhận về người xưa của thời quân chủ, đã công minh mà có đôi lời về vua Lê Thánh Tông:
Lại xem sử đời vua Lê đế,
Như Thánh Tôn còn kể ai hơn.
Trong nghiên cứu Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi xem thời vua Lê Thánh Tông là đỉnh cao của nền quân chủ. Ông viết: "Với Lê Thánh Tông (1460-1497), nền quân chủ của Việt Nam đạt tới đỉnh điểm. Ba mươi bảy năm trị vì, một triều đại dài một cách khác thường, đã giúp Thánh Tông có thể thực hiện một công trình khổng lồ trong mọi lĩnh vực hành chính, kinh tế và xã hội. Hoàn tất việc tập trung chính trị, thống nhất các thể chế, dùng đồn điền mở rộng diện tích canh tác, đồng thời, bảo đảm cho người dân một mức sống ổn định bằng biện pháp quân điền theo định kỳ".
Như trên chỉ là một vài trong muôn vàn những lời tán dương công đức của vị vua trị vì 37 năm của nhà Lê sơ. Hẳn nhiên, vua phải làm được gì thì mới nên công nghiệp rực rỡ được ghi nhận như thế chứ?
Tiền Hồng Đức thông bảo. Ảnh: Tư liệu sưu tầm
Những lời xưng tụng, ngợi ca của đương thời cũng như hậu thế đối với vị vua lên ngôi sau loạn Lê Nghi Dân, không phải là lời hoa mỹ hay nói vống cho có đâu. Bởi nếu xét 37 năm làm vua của Lê Thánh Tông, những gì ông làm được cho triều đại, cho nước nhà, đáng để sử vàng, bia đá tạc ghi lắm. Mà thành tựu trị nước, không chỉ ở một lĩnh vực nào đó thôi đâu, công nghiệp của vua trải rộng khắp hết thảy mà trong phạm vi bài viết này, câu chữ không đủ để ta đi sâu mà nói ra cho hết được. Chúng tôi chỉ xin điểm xét qua mà thôi.
Trong lĩnh vực hành chính: Lần đầu tiên trong thời Lê sơ, vua cho đo đạc, vẽ bản đồ các đơn vị hành chính, đời sau biết đến là "Hồng Đức bản đồ" được vẽ năm Kỷ Sửu (1469); đồng thời chia đơn vị hành chính thành phủ, huyện, châu "nhằm đơn giản hóa việc hành chính và đồng thời tăng thêm quyền lực của nhà vua".
Về quan chế, vua thực hiện việc cải cách khi đặt thêm sáu tự bên cạnh lục bộ để kết hợp làm việc, kiểm soát lẫn nhau. Trong dùng người, vua rất thẳng thắn và nghiêm khắc, không quá câu nệ tình riêng. Quan lại dẫu thân cận hay tài năng có lỗi lệch là bị nghiêm phê. Thế nên mới có trường hợp Trạng Lường Lương Thế Vinh từng được bộ Lại tiến cử với vua năm Đinh Hợi (1467) nhưng bị gạch khỏi danh sách những người tài năng, cương trực được tiến cử; Ngô Sĩ Liên dẫu là sử quan giỏi từng bị chê trách;…
Lại để cho việc trị nước được nghiêm, có quy chế, luật lệ ràng buộc nhân dân, vua cho soạn Quốc triều hình luật, rồi sau thêm Thiên Nam dư hạ tập bổ sung giúp duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quốc gia và vương quyền. Trong đời mình, vua cũng chú ý xây dựng quân đội theo chính sách "ngụ binh ư nông" của tiền nhân. Không những thế còn thân dẫn quân bình Chiêm, mở rộng cương giới quốc gia năm Tân Mão (1471).
Lê triều hình luật (Quốc triều hình luật). Ảnh: Nguyễn Văn Miếng
Việc chính trị, quân sự giỏi là thế, vua còn tỏ ra toàn tài khi là người siêng đọc sách, giỏi văn thơ, lập ra Tao Đàn gồm 28 văn nhân giỏi đương thời do vua làm "Thiên Nam động chủ". Di sản thơ văn của hội thơ này và của vua còn để lại như Quỳnh uyển cửu ca, Hồng Đức quốc âm thi tập… Vua còn là người giải oan cho Nguyễn Trãi, góp phần khôi phục lại danh tiết và thơ văn của vị công thần bị chết vì án oan.
Hoặc như trong việc sử dụng người tài, vua cũng là tiêu biểu khi chú trọng chọn nhân tài qua khoa cử. Trong 31 khoa thi tiến sĩ thời Lê sơ, chúng tôi thống kê được riêng thời vua là 11 khoa với số tiến sĩ được ghi danh là 502. Chiếm hơn 1/2 số lượng tiến sĩ thời Lê sơ. Những tên tuổi Thân Nhân Trung, Lương Thế Vinh, Quách Đình Bảo… còn để lại tiếng tốt trên đời đều ở thời vua mà ra cả. Lại không để sót nhân tài, ngoài chính sách khoa cử, tiến cử, tập ấm đã thành lệ, vua còn là người mở đầu cho lệ bảo cử theo đó lấy người có danh vọng và đạo đức tốt để bổ nhiệm vị trí cao…
Chỉ dăm ba việc điểm qua thôi, ta đã thấy tài năng toàn diện "Văn giáo rộng ban/Vũ công đại định" được hiển hiện trong việc trị nước của vua Lê Thánh Tông trong 37 năm ngồi bệ rồng. Để từ đó, vua làm gương sáng cho các quân vương về sau. Còn hậu thế đến nay, nhớ về thời Lê sơ thịnh trị, không thể không nhắc đến đỉnh cao của chế độ nhà Lê sơ với dấu ấn của Lê Thánh Tông.
Theo Trí Thức Trẻ