Nguồn gốc của thê thiếp
Trong giai đoạn đầu của xã hội bộ lạc nguyên thủy, hình thức tổ chức xã hội nói chung là chế độ mẫu hệ, lúc này, bộ lạc do phụ nữ làm chủ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội và việc nâng cao năng suất lao động, địa vị xã hội của nam giới trong bộ lạc dần được cải thiện, vai trò người đàn ông càng lớn, trở thành trụ cột gia đình. Dần dần, chế độ mẫu hệ sụp đổ và chuyển sang chế độ phụ hệ. Chế độ phu thê và thê thiếp cổ đại ra đời trong thời kỳ xã hội thị tộc mẫu hệ lụi tàn.
Sau khi bước vào chế độ phụ hệ, các thủ lĩnh bộ lạc có thêm một số nô lệ nữ ngoài người vợ của họ. Thủ lĩnh bộ tộc đương nhiên cũng có quyền lực đối với nữ nô lệ. Ban đầu, những nữ nô lệ này chủ yếu nhằm mục đích trút bỏ dục vọng cho thủ lĩnh bộ tộc chứ không nhằm mục đích sinh ra con cái. Tuy nhiên, thời cổ đại không có công nghệ tránh thai và những nữ nô lệ này có khả năng mang thai, vì vậy các thủ lĩnh bộ lạc đã chọn một số lượng nô lệ nữ cố định để tránh tình trạng nhầm lẫn dòng máu của họ.
Theo thời gian, địa vị của những nữ nô lệ chuyên tâm phục vụ thủ lĩnh này cũng đã thay đổi, không còn là nô lệ đơn thuần nữa, địa vị cũng có chút cải thiện nhưng vẫn rất thấp. Họ được gọi là thiếp sớm. Ngoài ra, vào thời cổ đại, đôi khi khi thủ lĩnh bộ tộc sẽ cưới một số chị em gái của người vợ. Đây là hệ thống của thê thiếp, và địa vị của thiếp thường cao hơn so với nô lệ nữ.
Sau khi nhà nước phong kiến ra đời, chế độ hôn nhân trong xã hội loài người dần hoàn thiện, nam giới cũng có những quy định cố định trong việc lấy vợ, gả thiếp. Những quy tắc này được nam giới thời xưa tuân thủ nghiêm ngặt khi lấy vợ lẽ, không phải cứ có địa vị cao hoặc có tiền là có thể có nhiều thê thiếp.
Một người vợ lẽ trước tiên cần phải có sự đồng ý của cha mẹ, và sau khi cha mẹ đồng ý, cũng cần phải có sự đồng ý của người vợ. Ngoài ra, số lượng thê thiếp bị hạn chế nghiêm ngặt. Ví dụ, vào thời nhà Hán, chỉ những người lao động đặc biệt mới có thể có 9 thê thiếp, trong khi những quan lại bình thường chỉ có thể có 2 hoặc 3 thiếp. Vào thời nhà Minh, vua có thể có 11 thê thiếp, và Hoàng tử có thể có 5 thiếp. Còn đối với thường dân thời xưa, nói chung không được phép lấy vợ lẽ, và những người thiếp chỉ được phép trong một số điều kiện nhất định. Thời nhà Minh, quy định đàn ông chỉ được lấy thê thiếp khi đã 40 tuổi mà vẫn chưa có con, thiếp phải báo cáo với chính quyền, nếu không sẽ bị phạt đánh.
Địa vị của thê thiếp
Địa vị của thê thiếp thời cổ đại nhìn chung thấp và thay đổi tùy theo các tình huống khác nhau. Nói chung, nếu gia đình của người vợ là một gia đình quyền quý, và người đàn ông kết hôn với một số chị em của người vợ, thì địa vị của những người vợ lẽ đó sẽ cao hơn so với những người vợ lẽ bình thường. Nếu xảy ra trường hợp người vợ chính chết yểu hoặc lâu ngày không có con, thì những thê thiếp đó có thể trở thành người có vị trí ngang với vợ chính thất. Ngược lại, một số thê thiếp đến từ những người hầu trong nhà nam chủ, hoặc được mua bán từ người khác hoặc làm quà biếu thì họ chỉ được coi như một món đồ mà thôi.
Ngoài ra, sự khác biệt giữa thân phận của một người vợ lẽ và một người vợ cũng được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Thời xưa, khi lấy vợ, người con trai sẽ phải nghe theo lệnh của cha mẹ hoặc theo lời bà mối, nhà trai phải trả lễ vật hứa hôn,… Có thể nói, việc cưới xin là một điều trọng đại trong đời. Ngay cả một thường dân, việc lấy vợ cũng là một phần quan trọng của cuộc đời họ.
Nhưng thiếp thì khác, đám cưới của người thiếp nhìn chung rất đơn giản, có khi không có đám cưới. Khi đi qua cửa thì người thiếp không được qua cửa chính, chỉ có thể vào từ cửa phụ. Những đứa con của vợ lẽ có địa vị không thể so sánh với những đứa con do vợ chính thất sinh ra, và chúng không có quyền thừa kế tài sản cũng như không có quyền lực trong gia đình.
"Đặc quyền" của thê thiếp
Vào thời cổ đại, đàn ông có nhiều vợ và thê thiếp thường là những người giàu có và quyền lực, và những người này chắc chắn sẽ phải chịu cảnh gia đình diệt vong nếu thất bại trong cuộc chiến chính trị. Khi những vị quý tộc này gặp phải tai họa chu di cửu tộc hoặc tam tộc, thì những người thiếp trong gia tộc có thể tự cứu mạng họ.
Đó là bởi vì, tuy thê thiếp cũng thuộc gia đình nam chủ và cũng sinh con cho họ, nhưng theo chế độ phụ hệ cổ đại, thiếp không đủ tư cách để vào gia phả và cũng không đủ tư cách để được an táng vào mộ tổ tiên của gia tộc sau khi chết. Thê thiếp chỉ được coi là tài sản của nam chủ, không được coi là người của gia tộc, vì vậy, họ có thể thoát khỏi việc bị xử tử khi gia tộc bị hành quyết.
Mặc dù các thê thiếp thoát khỏi số phận bị xử tử sẽ không bị đưa ra pháp trường, nhưng khi nam chủ bị tử hình thì họ cũng sẽ bị tịch thu hết tài sản. Số phận của những thê thiếp này rất có thể sẽ bị đưa vào nhà chứa, nếu may mắn thì có thể được quý nhân cứu chuộc, nếu xui xẻo thì cả đời sẽ phải sống trong nhơ nhớp, mua vui cho đàn ông.
Theo Bảo Vệ Công Lý