Mặc dù Tạ Vinh không phải là thành viên Tam hoàng nhưng ngay khi ông ta bị bắt rồi bị đưa ra xét xử trong một phiên tòa chớp nhoáng, cả Tam hoàng Chợ Lớn lẫn Tam hoàng Hồng Kông đều ra sức cứu Tạ Vinh bởi lẽ "Nếu không nhanh chóng dập đám cháy nhỏ bằng một thùng nước thì sẽ phải dập bằng cả một hồ nước"…
Bối cảnh của vụ xử bắn Tạ Vinh
Trước khi nói đến chuyện Tạ Vinh bị đưa ra pháp trường cát và bị xử bắn thì thiết tưởng cũng nên nhìn qua bối cảnh chính trị ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Sau khi tướng Nguyễn Khánh quậy nát thể chế Việt Nam Cộng hòa rồi bốc một "nắm đất quê hương" đi lưu vong, Thủ tướng Trần Văn Hương lại phải đương đầu với cuộc khủng hoảng trong nội bộ Thượng Hội đồng Quốc gia (THĐQG - là một nhóm gồm 17 chính trị gia được sự ủng hộ của các tướng lĩnh, đã đứng ra điều hành đất nước).
|
Tạ Vinh lúc ra tòa án quân sự mặt trận. |
Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, quyền Chủ tịch THĐQG phản đối ông Hương vì cho rằng thành phần chính phủ không phản ảnh đúng nguyện vọng của các đảng phái. Tiếp theo, Chữ lôi kéo sinh viên và nhiều tổ chức tôn giáo khác, tiến hành những cuộc hội thảo, nhóm họp, biểu tình, đòi Hương phải cải tổ nội các.
Trước sức ép ấy, Trần Văn Hương vẫn cương quyết giữ vững lập trường. Ông ta tuyên bố: "Nhất định không cải tổ, không lùi bước, bằng mọi cách phải tái lập trật tự". Chả thế mà báo chí hồi đó đã đặt cho ông ta cái biệt danh là "Ông già gân".
Nhận thấy tình hình rối ren, không thể khoanh tay đứng nhìn, ngày 24.1.1965 Hội đồng tướng lĩnh nhóm họp để tìm phương cách giải quyết. Sau 3 ngày thảo luận, các tướng lĩnh cho rằng đã đến lúc cần phải vãn hồi trật tự xã hội đồng thời cũng để xoa dịu sự chống đối, Hội đồng quyết định giữ nguyên chức vụ Quốc trưởng của Phan Khắc Sửu, bãi nhiệm Thủ tướng Trần Văn Hương và đưa đi quản thúc tại Vũng Tàu, đề cử Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh làm thủ tướng để thành lập nội các mới.
Tuy nhiên, ông Oánh xin từ nhiệm vì ông bị áp lực phải dành chức Tổng trưởng Nội vụ cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Thế nên, nội các chưa thành hình thì đã chết yểu rồi được thay thế bằng chính phủ của Thủ tướng Phan Huy Quát, trong đó Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Ngoại giao là bác sĩ Trần Văn Đỗ, Phó thủ tướng phụ trách kế hoạch là luật sư Trần Văn Tuyên.
Một ngày sau khi nội các Phan Huy Quát trình diện Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, Hội đồng Quân lực ra quyết định thành lập Hội đồng Quốc gia Lập pháp để thay thế THĐQG đã bị giải tán.
Ngày 20/5/1965, đại tá Phạm Ngọc Thảo làm đảo chính nhưng không thành. Bảy ngày sau, một phái đoàn đại diện "Lực lượng Công giáo đoàn kết" do linh mục Hoàng Quỳnh cầm đầu đến gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Hội đồng Quốc gia Lập pháp, trình kiến nghị yêu cầu giải nhiệm chính phủ của Quát vì "chính phủ này không được sự ủng hộ của đồng bào miền Nam, chỉ phục vụ quyền lợi đảng phái, gây chia rẽ nghiêm trọng…".
Đến đầu tháng 6.1965, nhiều phái đoàn tôn giáo và đảng phái chính trị khác lại tiếp tục đòi Phan Huy Quát từ chức. Ngày 11/6/1965, Quát triệu tập một phiên họp đặc biệt dưới sự chủ tọa của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu, gồm trung tướng Phạm Xuân Chiểu, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Lập pháp; trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Phó chủ tịch kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, thiếu tướng Linh Quang Viên, Tổng trưởng Thông tin... Trong cuộc họp này, cả Sửu lẫn Quát không ai nhượng bộ ai. Bất ngờ, Quát tuyên bố từ chức và giải tán chính phủ, Sửu thấy vậy cũng đành phải tuyên bố từ chức theo.
Ngay hôm sau, Nguyễn Văn Thiệu với cương vị Tổng trưởng Quốc phòng, triệu tập phiên họp các tướng lĩnh rồi đề nghị trung tướng Nguyễn Chánh Thi lên làm thủ tướng nhưng Thi từ chối. Thiệu hỏi: "Anh Thi không nhận. Vậy có vị nào chịu đảm trách vai trò này không?".
Vài phút yên lặng trôi qua. Cuối cùng, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ lên tiếng nhận trách nhiệm. Kết thúc buổi họp, các tướng lĩnh đồng ý để tướng Kỳ làm thủ tướng với danh xưng mới: "Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương", còn Nguyễn Văn Thiệu là "Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia".
Trở thành thủ tướng, ông Kỳ thành lập một nội các mới mà ông gọi là "nội các chiến tranh". Ngoài việc "chống Cộng đến cùng", một trong những mục tiêu của nội các này là "tiêu diệt gian thương và trừ khử các băng nhóm du đãng".
Ngày 26/6/1965, "nội các chiến tranh" cho ra đời hai tổ chức gọi là "Tổng đoàn trừ gian" để chống đầu cơ, tích trữ, và "Biệt đội bài trừ du đãng" nhằm xóa sổ xã hội đen. Bên cạnh đó, ông Kỳ cho lập "pháp trường cát" ngay giữa đô thành Sài Gòn để xử bắn gian thương, du đãng. Thế nhưng chỉ thời gian ngắn sau, người ta phát giác ra rằng chính các thành viên trong "Tổng đoàn trừ gian" lại bao che cho gian thương nên chúng vẫn lộng hành, còn một số người trong "Biệt đội bài trừ du đãng" lại trở thành "cha đỡ đầu" của các "đại ca số má"!
Những hoàng đế không ngai
Sinh năm 1932 tại một làng miền núi thuộc huyện Triều Dương, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, lên 4 tuổi Tạ Vinh theo gia đình sang Chợ Lớn, Việt Nam. Cha mẹ ông ta lúc ấy sống bằng nghề làm đồ tiểu thủ công và buôn bán nhỏ.
|
Pháp trường Cát, nơi xử bắn Tạ Vinh. |
Thời điểm năm 1965, có khoảng 200 nghìn người Hoa sống tại miền Nam Việt Nam, chia thành 5 bang, gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ (hay còn gọi là Khách gia, Hà Cá) và Hải Nam. Trong đó bang Quảng Đông có khoảng 80 ngàn người đã nhập quốc tịch Việt. Đa số người Hoa lúc ấy chỉ cần biết tiếng Việt đủ để giao tiếp chứ không học sâu hơn, còn trong nội bộ thì tiếng Quảng, tiếng Tiều, tiếng Hải Nam, Phúc Kiến vẫn là ngôn ngữ chính. Vì vậy người Việt mới có cụm từ "hoảng tiều" (hoảng: Quảng, tiều: Triều), chẳng hạn như: "Mày nói cái gì hoảng tiều vậy?" - nghĩa là nói tùm lum, chẳng hiểu gì hết!
Theo truyền thống, người Quảng giỏi về buôn bán và công nghệ, đa số các xưởng cơ khí, chế tạo khuôn mẫu, máy móc, dệt may ở Chợ Lớn đều do người Quảng Đông làm chủ. Người Phúc Kiến giỏi về giao thương với hàng loạt các công ty vận tải đường thủy, đường bộ. Người Triều Châu làm ăn nhỏ lẻ bằng cách mở tiệm ăn, tiệm tạp hóa, người Hẹ chuyên về tiểu thủ công nghiệp như lập lò rèn, nhà máy nước đá, đóng giày, làm bánh. Người Hải Nam chuyên kinh doanh thủy hải sản.
Một báo cáo của Quan thuế Sài Gòn (chức năng như ngành Hải quan bây giờ) cho thấy năm 1965, người Hoa ở miền Nam Việt Nam kiểm soát 80% việc mua bán lúa gạo, 78% ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim và gần như độc quyền trong thương mại. Về bán buôn, họ nắm 100%, bán lẻ nắm hơn 50% còn xuất nhập khẩu thì họ chiếm 90% nên chả trách Hoa kiều miền Nam lúc ấy gần như kiểm soát hoàn toàn giá cả thị trường.
Tại Chợ Lớn (là khu vực quận 5 và một phần quận 6, TP HCM hiện nay), số lượng người Hoa gốc Triều Châu chiếm khá đông. Bên cạnh đó, họ còn có mặt ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Hà Tiên…, đa số đều mang họ Trần, Trương, Lý, Lâm, Mã, Quách, Tạ, Trầm, Nhiêu..., phần lớn đều không thích đi làm mướn cho người khác - hoặc giả có phải làm mướn chăng nữa thì cũng là làm mướn cho những người cùng bang hội như một cách ẩn nhẫn chờ thời trước khi lên làm chủ - dù chỉ là chủ của một tiệm tạp hóa bé tí xíu.
|
Một khu phố người Hoa ở Chợ Lớn, năm 1966. |
Tạ Vinh cũng không nằm ngoài quỹ đạo này. Mới 27 tuổi, ông ta đã là Giám đốc Công ty xuất nhập khẩu Sui Hing, chuyên kinh doanh lúa gạo, sắt thép, đường sữa. Mặc dù không thể sánh bằng những ông "vua không ngai" khác như Mã Hỷ, chủ nhiều hãng tàu đò chạy khắp lục tỉnh Nam Kỳ, hoặc Lại Kim Dung, trùm các "chành" lúa gạo, hay như Lý Long Thân, từ một người mua bán đồ phế liệu rồi trở thành đại gia trên thị trường sắt thép xây dựng với tài sản "nổi" là Nhà máy luyện cán thép Vicasa, Hãng dệt Vinatexco, Vimytex, Hãng nhuộm Vinatefinco, hãng dầu ăn Nakyco, Hãng bánh ngọt Lubico, Ngân hàng Nam Việt, Ngân hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…, hoặc Trần Thành, "ông vua" bột ngọt, chủ hãng bột ngọt Vị Hương Tố, người đã đẩy lùi cuộc "xâm lăng" của tập đoàn sản xuất bột ngọt lừng danh Nhật Bản Ajinomoto vào thị trường miền Nam lúc bấy giờ, hoặc như Tạ Phong, vua thuốc lá, Trương Vĩ Nhiên, vua nhập khẩu phim ảnh, là chủ nhiều rạp chiếu phim ở Chợ Lớn, Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem đánh răng Hynos, Đào Mậu, vua ngân hàng…, nhưng Tạ Vinh cũng "không phải loại xoàng đâu". Bằng cách liên kết với những ông "vua không ngai" cùng ngành nghề, Tạ Vinh dần dà có một chỗ đứng cho riêng mình.
Tạ Vinh và ngôi sao “quả tạ”
Trở lại với việc tướng Kỳ thành lập "Tổng đoàn trừ gian", thời gian đầu những người thuộc tổng đoàn này hoạt động rất xông xáo. Họ cử nhân viên đến những tiệm buôn lớn nhỏ của người Hoa ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định cùng các tỉnh miền Tây nơi có nhiều Hoa kiều sinh sống, dò hỏi giá cả của những mặt hàng thiết yếu như gạo, đường, sữa, vải, ximăng, sắt thép, phân bón… rồi báo cáo trực tiếp cho tướng Kỳ mỗi khi có biến động.
Trong một bản tường trình của "Tổng đoàn trừ gian" gửi tướng Kỳ có đoạn: "Họ (tức những "xì thẩu" người Hoa) chi phối giá cả từ trên xuống dưới. Vàng chẳng hạn, cứ mỗi tối họ điện thoại sang Hồng Kông để nắm giá rồi sáng hôm sau, họ thông báo giá vàng trong ngày cho tất cả những đầu mối ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây. Phân bón cũng vậy, qua tin mật báo của cảm tình viên Tổng đoàn, trong 6 kho ở bến Chương Dương, bến Hàm Tử, bến Bình Đông hiện vẫn còn trên dưới 50 nghìn tấn nhưng trên thị trường, họ ra lệnh cho các đại lý chỉ bán nhỏ giọt vì họ nắm được thông tin là phân sẽ lên giá…".
Sôi máu, tướng Kỳ ra lệnh cho "Tổng đoàn trừ gian" phải tìm cho được những nhân vật cụ thể, những hành vi cụ thể về việc "lũng đoạn nền kinh tế quốc gia". Chẳng mấy chốc, các điều tra viên của Tổng đoàn đã có đầy đủ chứng cứ về một người Hoa gốc Triều Châu là Tạ Vinh, khi tiến hành xây dựng doanh trại cho lính Mỹ đã chỉ đạo nhà thầu ăn bớt sắt thép, đồng thời hối lộ cảnh sát để mang số sắt thép này bán ra thị trường. Bên cạnh đó, "Tổng đoàn" còn tìm được chứng cứ Tạ Vinh đang tích trữ gạo chờ thời cơ lên giá, chuyển tiền "chui" sang Hồng Kông…
Và thế là số phận của "xì thẩu" này xem như đã được định đoạt…
Theo Vũ Cao/ANTG