Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Bình Trọng (1259-1285) là dòng dõi của vua Lê Đại Hành. Ông sinh ra ở xã Bảo Thái (Thanh Liêm, Hà Nam ngày nay), vợ là Thụy Bảo Công chúa, con vua Trần Thái Tông. Sau này, con gái của ông là Chiêu Từ hoàng thái hậu đã sinh ra vua Trần Minh Tông.
Một số tài liệu cho rằng ông là con trai của Lê Phụ Trần (chồng của Lý Chiêu Hoàng), nhờ có công cứu giá vua Trần Thái Tông nên được vua ban quốc tín, con cháu được mang họ Trần.
Quyết chiến chặn giặc mạnh
Sau khi chiếm Trung Quốc vào năm 1271 để lập ra nhà Nguyên, mục tiêu tiếp theo của Hốt Tất Liệt (hoàng đế nhà Nguyên) là mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Muốn đạt được mục đích đó, quân Nguyên buộc phải xâm lược bằng được nước ta.
Đó chính là một trong những lý do thôi thúc đội quân xâm lược điên cuồng này chuẩn bị chiến tranh bằng mọi giá, dù dư âm thất bại năm 1258 vẫn còn khiến nhiều bộ tướng của chúng khiếp vía.
Tháng 1/1285, 50 vạn quân Nguyên do Trấn Nam Vương Thoát Hoan (con trai Hốt Tất Liệt), cầm đầu chia quân làm hai cánh thủy bộ tiến vào xâm lược nước ta.
>> Mời độc giả xem video: Chiêm ngưỡng áo long bào của vua Bảo Đại được phục chế tiền tỷ (Nguồn: Người Lao Động)
Là đạo quân rất thiện chiến, nhiều kinh nghiệm qua các cuộc chiến tranh xâm lược, giai đoạn đầu, quân Nguyên nhanh chóng chiếm ưu thế trên chiến trường.
Sau khi gặp một số tổn thất trong vài trận đánh mở màn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về giữ Vạn Kiếp (nay thuộc vùng Chí Linh, Hải Dương).
|
Khi bị giặc bắt, Trần Bình Trọng đã thể hiện tinh thần yêu nước, không chịu khuất phục kẻ thù bằng câu nói đi vào lịch sử dân tộc. |
Sau đó, quân ta lui về Thăng Long, nhưng cũng không cản được sức tấn công ồ ạt của giặc Nguyên. Hưng Đạo Vương lại quyết định rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (Nam Định).
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Trần Bình Trọng được giao nhiệm vụ rất nặng nề: Phải giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ngăn chặn và cầm chân quân Nguyên, đảm bảo cho bộ chỉ huy rút lui an toàn và bí mật, không để lại dấu vết.
Bên kia chiến tuyến, Thoát Hoan đặc biệt ưu tiên cho cánh quân truy đuổi này với hai đạo cả thủy lẫn bộ đều do những tướng giỏi như Lý Hoằng, Ô Mã Nhi, nhằm truy bắt hai vua Trần (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông).
Để ngăn chặn đà truy kích của quân Nguyên, bảo vệ hai vua, Trần Bình Trọng đã tổ chức chặn đánh giặc ngay tại bãi Thiên Mạc.
Do có sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, Trần Bình Trọng đã sử dụng lối đánh cảm tử, cầm chân địch, giúp vua Trần và bộ chỉ huy rút lui an toàn. Đây cũng là trận đánh có ý nghĩa rất quan trọng về mặt chiến lược. Kể từ đó, quân Nguyên hoàn toàn mất dấu vết bộ chỉ huy kháng chiến của quân ta.
Câu nói nổi tiếng trong lịch sử
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi bắt được Trần Bình Trọng, giặc tìm mọi cách, vừa dọa nạt, vừa dụ dỗ ông. Tuy nhiên, ông kiên quyết không khuất phục.
Khi được hỏi có muốn làm vương đất Bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”.
Đó là một trong những câu nói nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, không khuất phục trước kẻ thù.
Không thu phục được Trần Bình Trọng, giặc Nguyên giết ông vào tháng hai Âm lịch năm 1285. Lúc đó, ông mới tròn 26 tuổi.
Nghe hung tin ông tuẫn nghĩa, triều đình vô cùng thương tiếc một dũng tướng hết lòng vì dân vì nước. Sách Cương mục chép rằng vua Trần Nhân Tông “được tin này, vật vã thương khóc”.
Sự hy sinh và đặc biệt là câu nói ngập tràn khí phách của Trần Bình Trọng đã cho thấy hoài bão lớn nhất của ông là giết giặc báo quốc. Đồng thời, nó cũng chính là khí phách của dân tộc ta với hào khí Đông A lúc bấy giờ.
Sách Đại Nam quốc sử diễn ca viết rằng: Trần Bình Trọng là tôi trung / Thà làm Nam quỷ, chẳng lòng Bắc vương.
Học giả Phan Kế Bính từng có có bài thơ khen ngợi cái chết lẫm liệt của Trần Bình Trọng: Giỏi thay Trần Bình Trọng / Dòng dõi Lê Đại Hành / Đánh giặc dư tài mạnh / Thờ vua một tiết trung / Bắc vương sống mà nhục / Nam quỷ thác cũng vinh / Cứng cỏi lòng trung nghĩa / Ngàn thu tỏ đại danh.
Theo Nguyễn Thanh Điệp/Zing News