Trên đê Cố Ngự
Nhớ chữ đồng tâm
Hỡi cô đội nón ba tầm
Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang
(Ca dao ngạn ngữ Hà Nội)
Mùa đông Hà Nội đẹp và lãng mạn. Đi trên đường Thanh Niên, trông ra hồ Tây mờ sương, cảm nhận mùa đông đến gần lắm.
Có người đã gọi con đường này là "đường tình yêu", nơi đã cất giấu bao nhiêu lời tự tình của trai gái Hà thành.
Đường Cổ Ngư, cái tên dẫn dụ ta trở về với Thăng Long thành thuở "Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương". Con đường với tuổi đời hơn 400 năm ngăn chia hồ Tây và hồ Trúc Bạch như khe mang của con cá khổng lồ (nếu ta tưởng tượng hồ Tây là thân và hồ Trúc Bạch là phần đầu của con cá).
Hơn trăm năm trước Hà Nội có rất nhiều hồ. Các hồ nối tiếp nhau san sát từ hồ Tây đến hồ Tả Vọng - Hữu Vọng. Cứ xem tấm bản đồ Hà Nội năm 1873 được vẽ bởi ông Phạm Đình Bách thì thấy rõ.
Ở mạn phía bắc, lớn nhất là hồ Tây rồi đến hồ Trúc Bạch, kế tiếp có hồ Cổ Ngựa rồi hồ Sao Sa. Đi theo hướng đông có hồ Huyền Thiên, hồ Đồng Xuân, hồ Ngư Võng, Thái Cực rồi đến hồ Tả Vọng, Hữu Vọng.
Trải qua thời gian, các hồ dần bị lấp để quy hoạch thành đường phố và khu dân cư. Vì thế, giờ đây không còn hồ Đồng Xuân mà thay vào đó là khu chợ Bắc Qua, cũng không còn hồ Thái Cực mà dấu tích của nó là phố Cầu Gỗ, rồi có Nhà hát Lớn được xây dựng trên hồ Hữu Vọng.
Thế kỷ thứ XVII, hồ Tây và hồ Trúc Bạch chỉ là một. Sau này người dân đổ đất, đóng cọc tre tạo thành một con kè nhỏ ngăn một phần hồ Tây tạo thành hồ Trúc Bạch như bây giờ.
Trong Cổ tích và danh thắng Hà Nội (Nhà xuất bản Văn hóa, 1958), cụ Sở Bảo Doãn Kế Thiện dẫn sách Long thành dật sử giải thích rằng con kè ngăn hồ này được đắp vào năm 1620 để ngư dân đánh bắt tôm cá vì phần trên của hồ Tây khá lặng sóng, vì vậy gọi là đập Cố Ngự (giữ cho vững chắc).
Thời nhà Lê nó được bồi đắp trở thành vòng thành ngoài của Kinh thành Thăng Long gọi là đê trấn Bắc. Thời Pháp, đê Cố Ngự được gọi là Cổ Ngư. Người thì bảo tên gọi này do con đường giống như phần cổ (mang) của con cá, người lại nói cách phiên âm của người Pháp không có dấu nên Cố Ngự thành Co Ngu là lâu dần đọc chệch thành Cổ Ngư.
Những năm đầu thế kỷ XX, đê Cổ Ngư chưa có dáng dấp của một con phố. Mặt đường sỏi đá gồ ghề và rất hẹp, chỉ đủ hai xe tay tránh nhau. Không có đèn đường nên ban đêm khu vực này rất tối tăm. Người ta lắp ở đây hai hàng cột sắt ở bên đường, trên cột có khung kính, bên trong đặt chiếc đèn dầu.
Mỗi tối có người mang thang đến thắp đèn lần lượt từ đầu đường đến cuối đường. Theo nhà văn Nguyễn Công Hoan, đến năm 1918 những cột đèn dầu hỏa này vẫn còn được sử dụng.
Năm 1931, Hội đồng Thành phố cải tạo đê Cổ Ngư bằng cách đổ đá dọc hai bên mở rộng thành đường. Đê Cổ Ngư không còn ngoằn ngoèo nữa mà mang dáng dấp của một tuyến đường. Người Pháp đặt tên cho đường này là Lyautey (lấy tên một viên Thống chế người Pháp). Cuối đường Cổ Ngư là đền Trấn Vũ, một trong bốn ngôi đền thiêng của "Thăng Long tứ trấn". Đoạn giữa đường Cổ Ngư có chùa Trấn Quốc và đền Cẩu Nhi.
Nói đến chùa Trấn Quốc, lại nhớ đến một chuyện còn lưu vết trên trang báo xưa. Vào năm 1935, một thương gia người Pháp - chủ khách sạn Métropole - đã móc nối với chính quyền định lấy một phần đất chùa làm dịch vụ giải khát và nhảy đầm. "Dự án" kinh doanh hỗn láo này bị nhân dân Hà Nội nguyền rủa. Ngay cả những người Pháp văn minh cũng không thể chấp nhận được lối kiếm tiền bất chấp đạo lý đó.
Tuần báo L'Eveil économique de L'Indochine (Đánh thức kinh tế Đông Dương) đã thẳng thừng chỉ trích việc kiếm tiền này là hành vi "thô bỉ", "thiếu văn hóa" của "kẻ vô ý thức". Nhờ sự phản đối này mà ý đồ trên không thực hiện được.
Đáng tiếc thay, những người Pháp văn minh đã ngăn cản được hành vi kinh doanh "thô bỉ" của gã thương gia tham tiền thì đã có thời kỳ chúng ta lại đi vào lối kinh doanh của "kẻ vô ý thức" đó. Thập niên 1980, ngay sát nơi thanh tịnh là chùa Trấn Quốc đã từng có một nhà nổi kinh doanh ăn uống, nhảy đầm với ánh đèn màu nhấp nháy lòe loẹt.
Đau lòng hơn là đền Cẩu Nhi trên đảo ở hồ Trúc Bạch cũng bị đập tan tành vào thập niên 1980 để xây dựng cơ sở sản xuất của Hợp tác xã và sau đó biến thành "quán ăn Cổ Ngư". Thật may đến nay đền Cẩu Nhi đã được phục dựng lại để trả lại sự linh thiêng của ốc đảo nhỏ bé này. Một việc làm ý nghĩa của những người có văn hóa, dù muộn.
Sau tiếp quản Thủ đô, Hà Nội bước vào công cuộc kiến thiết mới. Vào ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1958, Ủy ban Hành chính Hà Nội khởi công công trình mở rộng đường Cổ Ngư và xây dựng công viên hồ Trúc Bạch. Công trình này được giao cho thanh niên Thủ đô "độc quyền" thực hiện.
Hàng nghìn, hàng vạn xe cải tiến chở đất, đá từ bãi An Dương được đổ xuống để nắn đường Cổ Ngư vốn nhỏ bé, gồ ghề trở nên rộng rãi và mềm mại. Dốc Yên Phụ trước đây rất cao đã được đổ đất hạ thấp để dễ đi hơn.
Khu vực trước cổng đền Quán Thánh do nước hồ Tây rút ra xa để lại vũng lầy lội đã được đổ rất nhiều đất tạo thành vườn hoa đẹp (vườn hoa Lý Tự Trọng hiện nay).
Sau hàng vạn ngày công lao động của thanh niên, việc mở rộng đường Cổ Ngư đã hoàn thành. Người ta thảo luận đặt tên mới cho con đường. Đa số các ý kiến đề nghị bỏ tên cũ là Cổ Ngư vì không phù hợp với không khí của Thủ đô mới. Chẳng hiểu tại sao họ lại muốn bỏ cái tên rất đẹp ấy. Hàng loạt các "đề cử" tên mới như: đường Lý Tự Trọng, đường Hồ Xuân Hương nhưng vẫn chưa thống nhất.
Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội lúc đó là bác sĩ Trần Duy Hưng xin ý kiến Hồ Chủ tịch và được gợi ý đặt tên đường Thanh Niên như một sự tôn vinh công lao của thanh niên Thủ đô trong việc mở đường.
Vậy là tên đường Thanh Niên đã gắn với Hà Nội hơn nửa thế kỷ và cũng chứng kiến biết bao vui buồn của Thủ đô. Nhưng tên Cổ Ngư không vì thế mà mất đi, nó ẩn hiện trong tâm thức của những người yêu Hà Nội, nhẹ nhàng và lãng mạn trong mỗi câu hát "Cái rét đầu đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh. Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp. Đường Cổ Ngư xưa, chầm chậm bước ta về".
Theo PV/Zingnews