Hoàng thái hậu cuối cùng của triều Nguyễn có tuổi thơ buồn tủi, nghèo khó
Nếu Trung Hoa phong kiến nổi tiếng với những trang đời của các bậc tiên nhân từ Hoàng hậu, Hoàng thái hậu, Vua chúa cho đến các cung tần mỹ nữ thì chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam phải nói là còn quá nhiều bí ẩn về cuộc đời của các nhân vật thuộc dòng dõi hoàng tộc. Những câu chuyện đó không được nhiều người biết đến, mặc dù, những cuộc đời hoàng tộc cũng lắm bi ai ngang trái mà khi có dịp được nghe, ai ai cũng phải rơi nước mắt. Và trang đời của vị Hoàng thái hậu cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam, mẫu thân của vua Bảo Đại là một trang đời tăm tối buồn bã như thế.
Từ Cung Thái hậu sinh ngày 27/1/1890 tại làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế, bà có tên thật là Hoàng Thị Cúc. Hoàng Thị Cúc là kết quả của cuộc tình giữa viên tri huyện Hòa Đa (tỉnh Bình Định) Hoàng Văn Tích với người chị vợ La Thị Sơn khi bà này từ quê vào Bình Định chăm sóc em gái mình là La Thị Huân, chánh thất của ông Hoàng Văn Tích. Sau khi sinh nở, bà La Thị Sơn giao con gái cho vợ chồng viên tri huyện nuôi dưỡng để đi lấy chồng.
Không lâu sau đó, cha bà qua đời, bà được người anh cả cùng cha khác mẹ nuôi nấng. Tuy nhiên vì người anh này quá ham mê cờ bạc trong khi gia đình túng quẫn, nên chẳng bao lâu sau, bà bị chính anh mình là Hoàng Trọng Khanh bán đi làm nô tì trong cung để lấy tiền phục vụ cho việc ăn chơi.
(Ảnh tư liệu lịch sử Việt Nam)
Thế là trang đời tăm tối của bà ở cùng gia đình cũng từ đây mà kết thúc. Vì bản chất nghèo khó nhưng lương thiện, lại nhu mì hiền lành, khi vào cung bà liền được đưa đi để phục vụ cho bà Tiên Cung - vợ góa của vua Đồng Khánh, cùng Hoàng tử Bửu Đảo (tức vua Khải Định sau này). Lúc đó, Hoàng Tử Bửu Đảo đang giữ chức Phụng Hóa Công và đã có vợ là con gái của đại quan đầu triều, nhưng cả hai người sống với nhau lâu mà không có con. Điều này khiến bà Tiên Cung vô cùng buồn lòng vì lo hoàng tộc không có người nối dõi.
Tuy nhiên, cơ may của cô tì nữ Thị Cúc nghèo nàn ngày nào cũng bắt đầu vì đó mà một bước lên đời. Tại đây, mối lương duyên của cuộc đời đã cho bà may mắn gặp được Phụng hóa công Nguyễn Phước Bửu Đảo, là con trai cả của vua Đồng Khánh với bà Tiên Cung, nhân vật sau này trở thành vị vua thứ 12 của triều Nguyễn. Cái kết của những lần qua lại tình cảm mật thiết giữa Hoàng tử và cung nữ cuối cùng cũng có kết quả, thời gian ngắn sau, vào năm 1913, bà Hoàng Thị Cúc sinh hạ công tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại sau này).
Bà Tiên Cung biết chuyện, mặc dù rất tức giận vì cho rằng con trai mình thuộc dòng dõi Hoàng tộc, trong khi Thị Cúc chỉ là một người hầu thấp hèn thì làm sao có thể xứng đôi vừa lứa. Nhưng dù vậy, bà Tiên Cung cũng không thể nào nhắm mắt bỏ qua được sự thật rằng, Thị Cúc đã sinh cháu cho mình, một đứa con trai có thể nối dõi để duy trì quyền lực hoàng tộc. Thế là bà Tiên Cung đành nhắm mắt làm ngơ, chấp nhận cho mối tình này. Thế là từ một hầu nữ, Thị Cúc một bước trở thành vợ của một Hoàng tử triều Nguyễn.
Năm 1916, Hoàng tử Bửu Đảo được tôn làm vua, lấy niên hiệu là Khải Định. Dù ông có rất nhiều người vợ xuất thân quyền quý nhưng với việc sinh hạ cho vua người con trai duy nhất, bà Hoàng Thị Cúc đã có một vị thế không thể suy chuyển trong triều đình. Bà được Khải Định phong là Nhị Giai Huệ Phi hai năm sau ngày chồng mình đăng cơ.
Được biết, sinh ra trong gia đình quan lại cấp thấp, hoàn cảnh khó khăn nhưng bằng sự chịu khó và đức tính “cần cù bù thông minh”, Đức Từ Cung đã không ngừng phấn đấu rèn luyện cả chữ Hán, Pháp văn và Quốc ngữ, cùng với các nghi lễ, điển chương trong văn hóa ứng xử cung đình và cả trên trọng trách mà bà đảm nhiệm.
Vợ Vua, là mẹ của một Hoàng tử nhưng Huệ phi cũng như một người vô hình trong cung cấm
Đức Từ Cung (ngồi), Vua Bảo Đại, Hoàng hậu Nam Phương và 2 công chúa Phương Mai và Phương Liên. ẢNH: T.L IN TRONG SÁCH HUẾ TRIỀU NGUYỄN - MỘT GÓC NHÌN
Cứ tưởng, cuộc đời của cô thị nữ nghèo nàn dạo nào êm ả từ đây khi một bước "lên mây" trở thành phi, nhưng không, cuộc sống sau đó của bà cũng không khá gì hơn khi phải chịu cảnh gièm pha của "mẹ chồng" là Thái hậu Tiên Cung và sự bất lực của người chồng đầu ắp tay gối. Sử liệu chép lại, dù đã chấp nhận mối lương duyên này của con trai mình và tì nữ nhưng việc Thị Cúc nay là Huệ Phi không phải con nhà danh giá vẫn khiến bà Tiên Cung vô cùng ác cảm.
Vì vậy, ngay khi Hoàng tử Vĩnh Thụy mới chào đời, Huệ phi lập tức bị cách ly khỏi con trai. Bà Tiên Cung đón cháu nội của mình về cung riêng, tự chăm sóc, nuôi nấng mà không cho phép con dâu mình tiếp cận. Thậm chí, những khi Hoàng tử khát sữa mẹ, bà Tiên Cung mới cho người gọi Huệ phi đến cho bú rồi lại đuổi về. Huệ Phi gần như không được một ngày chăm sóc con, những lúc nhớ con, bà không làm gì được, cũng chỉ biết ngồi trong cung mà khóc, không dám đến gặp con, cũng không dám kêu than với Khải Định. Sau này, khi hoàng tử Vĩnh Thụy lớn hơn một chút, Huệ Phi cũng không được ở gần con. Ngày ngày, nhiệm vụ của bà chỉ là lo xem sở thiện sẽ nấu món gì cho Hoàng tử ăn và phải đảm bảo sao cho các món ăn đủ chất nhất.
Cuối cùng, nói là vợ Vua, là mẹ của một Hoàng tử nhưng Huệ phi cũng như một người vô hình trong cung cấm. Số phận bắt bà xa mẹ từ nhỏ, giờ lại bắt bà chịu thêm cảnh xa con khi tưởng như cuộc đời đã viên mãn sung sướng hạnh phúc. Khi con trai Vĩnh Thụy của mình lớn hơn nữa, cứ nghĩ đứa trẻ nào lớn lên cũng sẽ biết trắng đen phải quấy, ai là mẹ mình mà về bên phụng sự yêu thương, nhưng chưa kịp đoàn tụ, Hoàng tử đã được cho đi du học Pháp. Huệ Phi vốn đã xa con, nay còn xa hơn bội phần.
Đến năm 1925 vua Khải Định băng hà, con trai bà là Vĩnh Thụy đang học bên Pháp được gọi về nối ngôi lấy niên hiệu là Bảo Đại rồi mới trở lại Pháp học tiếp. Năm 1932, vua Bảo Đại học xong về nước trị vì, tôn phong bà là Đoan Huy Hoàng Thái hậu vào năm 1933, thường gọi là Từ Cung Thái hậu.
Cái kết của một cuộc đời buồn: bất đồng với con dâu, xa cách con cháu, chết trong cô độc nghèo khó
Và rồi, tròn một năm sau đó, cuộc sống của bà lại đảo lộn khi chính bà phải lâm vào hoàn cảnh của mẹ chồng mình năm xưa. Năm 1934 vua Bảo Đại làm lễ thành hôn với Hoàng Hữu Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, một cô gái theo đạo Công giáo và có tư tưởng vô cùng tân thời, trong khi Từ Cung Thái hậu lại là một người sùng đạo Phật và là một người phụ nữ quy củ của triều đình Huế xưa. Từ những thứ khác nhau này, Từ Cung Thái hậu và Hoàng hậu Nam Phương không ít lần xảy ra cuộc chiến ngầm.
Chuỗi ngày sau đó, nhiều biến cố lịch sử xảy ra, nhà Nguyễn bước vào ngưỡng suy vong, vua Bảo Đại thì lao vào các cuộc giao thương chính trị, con dâu thì không vừa mắt, cháu thì xa cách, Thái hậu Từ Cung cũng chỉ biết lủi thủi sống một mình bện cạnh những người tì nữ. Về sau, nhà Nguyễn suy vong hoàn toàn, năm 1955, bà rời khỏi cung và sống tại căn nhà số 79 phố Phan Đình Phùng, thành phố Huế cho đến cuối đời.
Những năm tháng cuối đời của Thái hậu Từ Cung, bà lại trở về cuộc sống cô đơn và nghèo khó, không có con cháu bên cạnh. Nhưng dù cuộc sống khó khăn, chật vật đến mấy, kể cả việc phải bán dần từng món đồ trang sức, thì Từ Cung Thái hậu vẫn làm tròn phận sự của mình với tổ tiên nhà Nguyễn cho đến giây phút cuối cùng.
Thậm chí, năm 1968 khi Huế rơi vào tình trạng mưa bom lửa đạn, bà vẫn không rời khỏi vùng đất cố đô nửa bước, kiên quyết ở lại để bảo vệ những hoàng hoa cuối cùng của một triều đại suy vong, bà nói: "Ta sinh ra ở đâu thì sẽ chết ở đó. Tổ tiên nhà Nguyễn còn ở Huế thì ta còn phải ở lại lo chuyện thờ cúng, chăm sóc lăng mộ các bậc tiền nhân. Nhà Nguyễn đã cho ta hưởng lộc cả đời. Ta có chết cũng chưa báo đáp hết được". Năm 1980, sức khỏe ngày càng yếu đi nhưng bà vẫn minh mẫn, tỉnh táo nhưng luôn luôn chất chứa một nỗi buồn khôn xiết về số phận không được ở bên gia đình của mình.
Bà chỉ ao ước duy nhất một điều là được một lần gặp lại vua Bảo Đại - người con trai duy nhất cùng những đứa cháu nội của bà. Ước mơ đó đã không bao giờ trở thành sự thực. Đến khi mất, người duy nhất ở bên bà lúc đó là người cung nữ trung thành Lê Thị Dinh. Về phần vua Bảo Đại, khi hay tin mẹ mất, ông cũng không xuất hiện. Số tiền Từ Cung Thái hậu để lại chỉ đủ để những người hầu thân cận lo ma chay cho đám tang. Cuộc đời Hoàng Thái hậu cuối cùng của triều Nguyễn kết thúc trong nỗi buồn khôn tả như thế.
Đức Từ Cung mất ngày 3.10.1980, thọ 91 tuổi, cũng là người có công lớn trong việc cất giữ những bảo vật vương triều Nguyễn Lăng mộ bà được xây cất ở làng Dương Xuân (Huế), cạnh lăng vua Đồng Khánh và vua Tự Đức. "Tư thất của bà trở thành Khu lưu niệm Đức Từ Cung, lưu giữ những hình ảnh, kỷ vật và di vật có giá trị không chỉ của riêng bà mà còn của ba gia đình vua Đồng Khánh - Khải Định - Bảo Đại. Con người bình dị ấy thanh thản yên nghỉ giữa một vùng quê thanh bình, sau hơn chín thập kỷ trải nghiệm những trầm luân của số phận gắn với những thăng trầm của triều đại nhà Nguyễn".
Khi Đức Từ Cung lâm bệnh nặng vào mùa thu năm 1980, biết mình khó qua khỏi, bà đã mời chính quyền thành phố Huế đến, nói: "Tôi vốn xuất thân trong gia đình nghèo, không có tài sản chi hết. Tất cả những gì còn giữ hôm nay đây đều của nhà Nguyễn. Nay nhà Nguyễn không còn nữa thì đây là tài sản nhà nước. Tôi xin bàn giao cho các ông…”.
Theo Vũ Ngọc/ Khoevadep