Con dao của đầu bếp là không thể chạm tới
Đầu bếp thời xưa về cơ bản là của những gia đình nghèo, điều họ mong mỏi nhất từ những gia đình nghèo là học được kỹ năng nấu nướng, không chỉ để no bụng mà còn phải thành thạo một kỹ năng sinh tồn.
Thời cổ đại, không có nhiều đồ dùng nhà bếp và các thiết bị như máy ép trái cây, thớt, máy ép tỏi cũng chưa được phát minh ra như ngày nay . Muốn làm ra những món ăn “đủ cả sắc lẫn hương”, điều quan trọng nhất là con dao trên tay người nấu.
Không giống như các đầu bếp ở các nước khác, các đầu bếp Trung Quốc nhìn chung chỉ coi trọng một con dao. Vào thời cổ đại, không có trình độ công nghệ hiện tại, có thể nói là “khó tìm”. Người nấu ăn đã được các bậc thầy của họ dạy từ khi còn nhỏ để yêu cầu một con dao tốt để họ có thể làm cho sự nghiệp của họ thành công hơn.
Vì vậy, có thể nói con dao của người đầu bếp chính là người bạn đồng hành mà họ đã dày công tìm kiếm học hỏi, đồng thời cũng là công cụ để họ an cư lạc nghiệp. Mỗi đầu bếp đều rất nâng niu con dao của mình. Ngày thường chúng ta bắt gặp những món đồ cổ, đồ trang sức được nâng niu, nhưng lại không nỡ để người khác tùy tiện xem, làm sao người đầu bếp lại có thể đưa “huyết mạch” của mình cho người khác chạm vào.
Hơn nữa, chúng ta cũng có thể thấy trong nhiều công trình lịch sử, nhiều người cổ đại đã chọn cách đầu độc người khác bằng cách làm đồ ăn. Trình độ của pháp y và luật pháp thời cổ đại không hoàn hảo, và nhiều đầu bếp đã mất mạng vì những điều đó.
Nếu người khác tùy ý chạm vào dao, hồi chuông báo động trong lòng người nấu sẽ lập tức vang lên, nếu dao bị nhiễm độc, tính mạng của họ sẽ bị đe dọa, vì vậy, ngành công nghiệp này cũng coi việc bảo vệ dao của họ là một nguyên tắc sắt
Rìu của thợ mộc
Cũng giống như con dao trong mắt người nấu ăn, chiếc rìu cũng là vật nuôi dưỡng niềm tin nghề nghiệp cho người thợ mộc. Không giống như những người đầu bếp đang tìm kiếm những con dao ở khắp mọi nơi, người thợ mộc bắt đầu tự chế tạo chiếc rìu theo phong cách “cá nhân” của riêng mình ngay từ khi trở thành học trò của chủ nhân.
Thời cổ đại, không có xưởng sản xuất đồ gỗ, không có máy móc hoàn toàn tự động, nhiều đồ vật cần được thợ mộc đánh bóng. Không chỉ những người thợ mộc mới đảm nhận công việc đóng đồ gỗ mà đôi khi họ cũng có nhu cầu đóng nhà gỗ.
Vào thời cổ đại, không có nhiều biện pháp bảo vệ, và công việc leo núi là một việc nguy hiểm hơn. Nhiều thợ mộc cũng nghĩ rằng chiếc rìu của họ sẽ bảo vệ sự an toàn của chính họ, và một khi bị người khác chạm vào, sự bảo vệ này có thể không có giá trị, vì vậy họ rất cẩn thận đối với chiếc rìu của mình.
Để nâng cao tay nghề của mình, hầu hết các thợ mộc chọn học từ một người Thầy ngay từ khi còn nhỏ. Các giáo viên khác nhau có sự kế thừa khác nhau, và mỗi gia đình coi những kỹ năng độc đáo của riêng họ là báu vật của tổ tiên và sẽ không bao giờ được truyền lại.
Nhiều người thợ mộc sẽ trưng bày một cách sinh động những gì họ đã học được trong đời trên những chiếc rìu yêu thích của họ, với những hoa văn tinh xảo được chạm khắc trên chúng, và đổ hết công sức của họ vào đó. Một khi người ngoài chạm vào rìu của họ, họ có thể có cơ hội để đánh cắp những kỹ năng độc đáo của riêng họ.
Hành trang của người độc thân là không thể chạm tới
Trong xã hội hiện đại ngày nay khi một người “sống độc thân”, chúng ta thường có ý nói rằng người đó đã lớn tuổi nhưng chưa có gia đình, và những người trẻ tuổi chưa lập gia đình không phải là hiếm
Nhưng thời cổ đại đã đề cao “phụ mẫu chi mệnh, môi chước chi ngôn” – Nghĩa là việc cưới xin của con cái phải do cha mẹ quyết định và nhờ người mai mối giới thiệu. Về cơ bản, đàn ông bình thường sẽ kết hôn sớm, để ổn định cuộc sống.
Nếu những đứa trẻ không có cha mẹ, những người không đủ khả năng chi trả cho hôn nhân, đến tuổi rất già mà không lập gia đình. Vào thời cổ đại, họ được gọi là “độc thân”.
Họ thường sống không cố định và luôn có hành lý mang theo khi sống lang. Vì vậy, hành lý của người độc thân nói chung là tất cả đồ đạc của họ , và bất cứ ai chạm vào hành lý của họ mà không được phép sẽ bị các cử nhân coi là xâm phạm “lãnh thổ” của họ.
Không thể chạm vào eo của góa phụ
Thời xưa, câu “nam nữ thụ thụ bất thân” là lẽ thường. Trừ khi giữa nam và nữ có hợp đồng hôn nhân, nếu không họ cần duy trì khoảng cách nhất định và cấm tiếp xúc thể xác.
Thời xưa, phụ nữ ở rể rất chú trọng đến việc “cấm vào hai cửa”, có thể nói là khá hạn chế , thời cổ đại, yêu cầu đối với góa phụ mất chồng càng khắt khe hơn.
Phụ nữ thời xưa tự hào về việc lập “vòm trinh tiết”, góa phụ cần nghiêm khắc yêu cầu những việc mình làm, giữ khoảng cách nhất định với đàn ông, không được gây hiểu lầm, nếu không sẽ bị hàng xóm phỉ nhổ. Nếu một người đàn ông chạm vào eo của bà góa, đó sẽ là một thảm họa cho cả hai bên.
Người ta nói: “có rất nhiều thứ trước cửa của bà góa”, trên thực tế, hầu hết những lời đồn thổi này đều do bà con lối xóm lan truyền. Một khi có điều gì đó “không thuận” trong mắt hàng xóm, góa phụ sẽ phải chịu sự chỉ tay của người khác, điều này chắc chắn gây tổn thương cho danh tiếng và trinh tiết người phụ nữ ở thời cổ đại.
Nhiều câu nói cổ xưa được lưu truyền mang rất nhiều ý nghĩa thiết thực. Ngày nay, chúng ta vẫn nhấn mạnh đến việc tôn trọng quyền riêng tư và nghề nghiệp đã có từ xa xưa, nó cũng được thể hiện sinh động trong câu nói: “ba không hỏi, bốn không sờ”.
Theo Thạch Thảo/Sài Gòn thể thao