Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975) là sự tiếp tục và cao nhất chính sách bành trướng của đế quốc Mỹ. Chính sách này bắt đầu từ thời kì Mỹ thực hiện “học thuyết Tơ-ru-man” (1947) nhằm đảm bảo “an ninh quốc gia” và “bao vây chủ nghĩa cộng sản”. Để thực hiện âm mưu, dã tâm xâm lược của mình, đế quốc Mỹ đã sử dụng bạo lực phản cách mạng đến cao độ, tiến hành một cuộc chiến tranh lớn nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Chưa bao giờ nước Mỹ sử dụng lực lượng quân đội đông và mạnh để tham chiến như trong chiến tranh Việt Nam, với ý đồ nhanh chóng dẹp yên quân lực “cộng sản”, giành thắng lợi áp đảo. Song, trái với tham vọng đó, chiến tranh Việt Nam không những không mang lại lợi nhuận gì mà còn gây ra nỗi đau dài cho nhân dân Mỹ.
|
SP4 Ruediger Richter (Columbus, Georgia), Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 503, Lữ đoàn nhảy dù chiến đấu 173 đưa mắt mệt mỏi vì trận đánh đang nhìn lên bầu trời trong khi Trung sĩ Daniel E. Spencer (Bend, Oregon) nhìn xuống xác đồng đội. Trận chiến ban ngày kết thúc, họ chờ đợi trực thăng đến di tản đồng đội của họ khỏi các ngọn đồi có rừng nhiệt đới bao phủ năm 1966. Ảnh: Wikipedia. |
Theo thú nhận chính thức của chính phủ Mỹ, con số thương vong của lính Mỹ ở Việt Nam cao hơn tất cả các cuộc chiến tranh trong lịch sử nước này, trừ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hậu quả đầu tiên là số người chết trong chiến tranh ngày một tăng. Tính chung cả cuộc chiến tranh, con số thống kê công khai là từ 1961-1974 có tới 57.259 người Mỹ đã chết ở Việt Nam trong đó có gần 37.000 người (64%) không quá 21 tuổi. Riêng năm 1970, gần 70% số thương vong là những lính quân dịch trẻ. Đó thực sự là món thuế máu nặng nề đối với nhân dân Mỹ.
Đi liền với chết chóc là thương vong, bệnh tật. Cũng theo con số chính thức, có 303.704 người đã bị thương trong chiến đấu. Trong số này có 153.329 người bị thương nặng phải nằm bệnh viện dài ngày còn 150.343 người mang những vết thương đã được chữa khỏi. Lầu Năm Góc cũng thừa nhận có đến 20.000 người Mỹ chắc chắn đã nhiễm chất da cam ở Việt Nam. Ngoài ra còn có gần 350.000 cựu binh khác (15% tổng số) bị giải ngũ một cách không vinh dự, không được bảo đảm việc làm, không được tôn trọng và tin cậy sau khi về nước.
Cuộc chiến thất bại còn ảnh hưởng kinh tế do những khoản chiến phí khổng lồ (nhiều người ước tính là 167 tỉ USD) đã khiến cho nước Mỹ lâm vào tình trạng lạm phát hai con số, nợ liên bang tăng vọt, kinh tế và mức sống sụt giảm trong giai đoạn dài từ cuối những năm 1960-1990. Mỹ cũng phải trả giá đắt về chính trị cho Chiến tranh Việt Nam. Đó là lòng tin của người dân vào chính phủ giảm sút. Họ thấy hồ nghi về sự chân thực và năng lực của những người lãnh đạo.
Cú sốc nặng nề của những người lính Mỹ
Cái chết chưa phải là tất cả, chiến tranh Việt Nam còn để lại những hậu quả khôn lường cho những binh lính Mỹ sống sót trở về. Nó đã “mở ra” một thời kì “sau Việt Nam” đầy đen tối cho nước Mỹ. Đi liền với cái chết, thương tật và những di chứng, binh lính Mỹ còn gặp phải nỗi ám ảnh mang tên “hội chứng Việt Nam”.
Chiến tranh đi qua, kẻ thắng, người bại đều trở về nhà. Nhưng cuộc chiến không kết thúc vào lúc ngừng tiếng súng. Nó vẫn còn tiếp diễn với nhiều người, đặc biệt là những người lính trở về từ chiến trường. Nỗi đau mất đi người thân, đồng đội hoặc một phần thân thể, nỗi ám ảnh về những nghịch cảnh bạo tàn của quá khứ như bóng ma cứ đeo đuổi mãi, khiến cho vết thương tâm hồn ngày càng trầm trọng thêm, khi mà vết thương thịt da đã được chữa lành.
Nhiều người Mỹ trở về từ cuộc chiến đã mãi kẹt lại ở quá khứ, với những day dứt, hận thù, ám ảnh. Đó là những chấn động lớn về tâm lý và tình cảm của người Mỹ nói chung và các cựu chiến binh Mỹ nói riêng. Nó khiến cho hầu hết lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam đều nghiện một chất gì đó như rượu, thuốc lá… thậm chí cả heroin.
Theo số liệu thống kê có khoảng 1/5 số lính Mỹ từng tham gia chiến tranh Việt Nam trong những năm 70 đã nghiện ma túy. Bên cạnh đó, những tổn thương về tâm lý ở họ còn biểu hiện rõ ràng là thường xuyên trong trạng thái lo lắng, căng thẳng. Hàng chục năm sau chiến tranh Việt Nam, những triệu chứng bệnh đó vẫn còn tồn tại. Đó là cái giá quá đắt mà nước Mỹ phải trả cho cuộc chiến “định mệnh” của chúng ở Việt Nam.
Người lính Mỹ đã gặp phải hai cú sốc nặng nề sau khi trở về từ cuộc chiến. Đầu tiên là khi mang súng sang Việt Nam, họ bị tuyên truyền là chiến sĩ bảo vệ tự do, bảo vệ Việt Nam khỏi họa bị “cộng sản” xâm lấn. Thế nên, có những người sau nhiều năm trở về từ cuộc chiến vẫn cho rằng mình chiến đấu cho phe chính nghĩa. Ông James G. Zumwalt, tác giả cuốn sách “Chân trần, chí thép”, là một ví dụ.
Ông Zumwalt sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nhiều đời binh nghiệp, có nhiều hơn một lý do để tự giam hãm mình trong cuộc chiến của quá khứ, để cho những thù hận trầm tích theo tháng năm. Trong một thời gian dài, chừng hai mươi năm sau ngày Chiến tranh Việt Nam kết thúc, ông vẫn nhìn về phía Việt Nam, kẻ thù cũ của nước Mỹ và của chính bản thân ông, với một niềm hận thù dai dẳng. Cái chết của người anh trai vì căn bệnh ung thư, hậu quả của phơi nhiễm Chất độc Cam, càng khiến ông Zumwalt nung nấu lòng thù hận, với niềm tin xác quyết rằng chính người Việt Nam đã gây ra cho ông bi kịch gia đình ấy.
Cho đến năm 1994, ông James G. Zumwalt có một chuyến đi tiếp xúc với những con người từng ở bên kia chiến tuyến làm thay đổi tâm hồn và nhận thức của mình. Trước chuyến đi, ông chỉ tin rằng cuộc chiến của người Mỹ là chính nghĩa, nỗi đau mà người Mỹ hứng chịu từ cuộc chiến là duy nhất có ý nghĩa, và người Việt Nam phía bên kia chiến tuyến là kẻ thù tàn bạo, phải chịu trách nhiệm trước cuộc thua của người Mỹ và bi kịch gia đình ông. Qua những cuộc tiếp xúc từ các tướng lĩnh cấp cao như Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Huy Phan, tới những người dân thường, từ những trai làng xung phong ra trận tới những phụ nữ một lòng son sắt như bà Bùi Thị Mè, ông Zumwalt đã vỡ ra điều bất khả tri bấy lâu.
|
Một quân nhân Mỹ đội chiếc mũ viết dòng chữ “Chiến tranh là địa ngục”, ngày 18/6/1965. Tác giả bức ảnh là Horst Faas, phóng viên người Đức. |
Sau chuyến đi ấy, ông mới nhận ra: “Một vài ý kiến tại Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước khi trở lại Việt Nam vào năm 1994, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi đã nghĩ khác. Chuyển biến trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất nước mới thôi”.
Cú sốc thứ hai với những người lính Mỹ là ngày về, thay vì được đón chào như những anh hùng dân tộc như những lớp cha anh họ sau Chiến tranh thế giới thứ hai hoặc là thế hệ con cháu họ sau này sau vùng Vịnh, họ bị coi là những kẻ giết người.
Số cựu binh Mỹ tự sát sau chiến tranh nhiều hơn cả số người bỏ mạng trong chiến tranh. Có lẽ hơn ba phần tư trong số một triệu người trở thành vô gia cư hoặc thất nghiệp. Gần 700.000 lính quân dịch, rất nhiều người xuất thân nghèo khó, giáo dục thấp không được hưởng trợ cấp xứng đáng. Họ rất khó khăn khi tìm kiếm việc làm, duy trì các quan hệ gia đình…
Hơn nữa, thực tế, hầu như chính phủ Mỹ không làm gì để hỗ trợ các cựu chiến binh cùng gia đình của họ. Sau cuộc chiến đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm, phim ảnh, chương trình truyền hình mô tả cuộc sống của cựu binh Mỹ, những ký ức tồi tệ họ trải qua, chứng loạn thần họ gánh chịu khi tham chiến ở Việt Nam và cả khi đã trở về nhà. Nhiều cựu binh đã thành công khi trở lại cuộc sống của những người dân bình thường, nhưng rất nhiều người thất bại.