Nói đến Tây Tạng thường chúng ta liên tưởng đến một đất nước phật giáo đầy bí ẩn được che giấu giữa những dãy núi tuyết Hy Mã Lạp Sơn. Đến đây, người ta còn tìm được cảm giác thư thái bình yên trong tiếng chuông chùa ngân vang. Đi qua những cánh đồng bạt ngàn của dân du mục, những dãy núi tuyết, người ta có cảm giác đi qua đủ mọi hỷ, nộ, ái, ố của cuộc đời để rồi thấy lòng mình như được gột rửa, trở nên thanh sạch và yên bình hơn.
Ở đất nước phật giáo đầy bí ẩn này, người ta còn truyền nhau những câu chuyện huyền bí về nhũng vị Đạt Lai Lạt ma, là hiện thân lòng từ của chư phật và Bồ Tát.
Vị Đạt Lai Lạt ma đầu tiên của Tây Tạng
Đức Đạt Lai Lạt ma đầu tiên của Tây Tạng chính là Gendun Truppa (1391 - 1475). Ngài được sinh ra trong một gia đình thuộc thành phần chăn nuôi du mục. Họ đã di cư từ miền đông Tây Tạng đến những cao nguyên mênh mông nằm tận phía tây. Họ tạm định cư trên một cánh đồng nhỏ ở Shabtod, nằm trong thung lũng Srad gần Shigatse và cách chùa Sakya không xa lắm.
|
Ảnh minh họa.
|
Theo sử ký Tây Tạng thì cậu bé được sinh ra trong chuồng bò, nơi mà gia đình họ đang ẩn náu ở đó để tránh khỏi sự tấn công của bọn thổ phỉ. Nhưng sau khi cậu bé được sinh ra, cả gia đình cậu bé bị sự truy lùng của bọn thổ phỉ, nên đều bỏ trốn. Họ để lại hài nhi được giấu sau những tảng đá và quấn trong tấm chăn ấm áp.
Sáng hôm sau những người chăn cừu quay trở lại. Họ vô cùng kinh ngạc khi thấy hài nhi được bình yên vô sự và một con quạ thật to đang canh gác cho cậu bé khỏi sự đe dọa của những bầy quạ, kền kền và những con chó hoang dã khác. Các nhà tiên tri sau này cho rằng con quạ ấy chính là hiện thân của Mahakala, một dạng thần Hộ Pháp của đức Quan Thế Âm và vị thần Mahakala đã theo hộ trì cho cậu bé ấy suốt đời.
Khi còn là một đứa trẻ, cậu bé đã thể hiện khả năng về tôn giáo của mình qua nghệ thuật chạm khắc những câu mật chú và những lời cầu nguyện trên các tảng đá trong lúc đang chăn giữ gia súc. Năm lên bảy, lúc cha qua đời, người mẹ đã đưa ngài đến Nartang, một ngôi chùa của phái Kadampa để làm thị giả và học hành dưới sự giám hộ của người cậu tên là Geshe Chosey. Ngài được đặt tên mới là Padme Dorje (có nghĩ là hoa sen sấm sét), và được học hành với một số vị cao tăng.
Để thể hiện lời hứa của mình, vị viện trưởng Drubpa Sherab - một đạo sư nổi tiếng - đã nhanh chóng tạo mọi cơ hội cho ngài được học hành, dìu dắt, chở che và truyền trao nhiều giáo lý. Sau đó, ngài được xuất gia với pháp danh là Gendun Drub, thậm chí còn được thọ nhận những sự giúp đỡ về mặt vật chất vì gia đình ngài rất nghèo.
Trước năm hai mươi lăm tuổi, ngài đã hoàn tất việc thọ giới và trở thành một vị tăng thực thụ với pháp hiệu Gendun Drup hay Gendun Truppa (có nghĩa là sự hoàn hảo của đức hạnh) và được học hành dưới sự hướng dẫn từ bốn mươi đến năm mươi vị lạt ma.
Sau đó, Gedun Truppa đã rời khỏi Nartang và đến trung tâm Tây Tạng để theo đuổi việc học hành cao hơn ở một số trường đại học Phật giáo khác. Trong số hơn sáu mươi vị thầy mà ngài đã từng được học hỏi và thọ giáo, có ba người thầy đặc biệt ảnh hưởng đến cuộc đời của ngài. Người thứ nhất là viện trưởng Drubpa Sherab, kế đến là ngài Tsongkhapa và cuối cùng là nhà hiền triết Sherab Sengge.
Trong lần ngài diện kiến với Tsongkhapa vào năm 1415, bậc thầy lãnh đạo tinh thần vĩ đại ấy đã xé một mảnh áo ca sa của mình đưa cho ngài và tiên đoán tương lai thành công của ngài. Nhờ sự giúp đỡ của Tsongkhapa và đệ tử sau này của ông là Khadrub, ngài đã được thọ nhận sự đào tạo cao cấp trong dòng dõi Kadam của bậc đạo sư Atisha và trở thành một trong những vị trưởng tử của đạo sư.
Trong suốt mười hai năm ở trung tâm Tây Tạng, Gedun Truppa đã nhập thất, thiền định và học hỏi không ngừng, cuối cùng đạt được chức vụ Viện trưởng ở Ganden và do đó ông đã đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của phái Gelupa.
Một trong những tiểu sử của Tây Tạng về Gedun Truppa đã chép rằng ngài đã đặc biệt nổi tiếng nhờ vào sự duy trì cả ba cấp độ của giới luật. Ngài cũng thọ trì và tinh thông về các dòng Mật tông của Tara và Kalachakra. Nói chung, ngài đã thể hiện chính mình là một tăng sĩ mẫu mực: trước hết là học hành, nghiên cứu bằng quá trình văn - tư - tu của mình để đạt được sự giác ngộ và sau đó là cống hiến cả cuộc đời mình cho sự truyền bá đạo pháp, để lại những tác phẩm giá trị và xây dựng các trung tâm tâm linh cho hậu thế.
Gedun Truppa đã để lại cho hậu thế vô số các tác phẩm của mình, bao gồm bảy tập lớn với hàng trăm đề tài. Có một số tác phẩm như những chú giải của ngài về Giới và Luận dài đến hơn cả nghìn trang. Thêm vào đó là nhiều sáng tác về thơ văn - một trong những chủ đề hệ trọng của Tây Tạng, và nhiều tiểu luận đã trở thành một trong những di sản lớn nhất của ngài.
Do sự nổi tiếng của ngài và trên thực tế ngài là một tăng sĩ Kadampa nên những tác phẩm và sự truyền bá của ngài đã có ảnh hưởng hết sức sâu rộng. Thể loại văn viết của ngài rất cụ thể, cặn kẽ và hết sức rõ ràng trong việc biểu đạt những ý nghĩa cơ bản, tuy nhiên văn phong lại hết sức khiêm nhường.
Gedun Truppa còn được biết đến như là một nhà xây dựng rất nổi tiếng nhờ công trình xây dựng Tashi Lhunpo - ngôi chùa được mệnh danh là “đỉnh núi của sự phúc lành” ở Tsang gần Shigatse, như một tượng đài kỷ niệm đối với vị thầy đã quá cố của ngài – thầy Khasgrub. Ngôi chùa ấy đã trở thành một trong những trụ sở đồ sộ nhất của phái Gelupa và là tổ ấm cuối cùng của Panchen Lama - người duy nhất có uy thế toàn diện đứng thứ hai sau đức Đạt Lai Lạt ma.
Bắt đầu từ năm 1447, ngài đã đích thân giám sát toàn bộ công trình xây cất chùa Tashi Lhunpo, sau đó trở thành vị viện chủ đầu tiên của ngôi chùa ấy và duy trì vị trí chủ chốt này cho đến cuối đời. Ngài cũng đã nỗ lực quyên góp vật chất, tài chính và tìm kiếm những người thợ khéo léo lành nghề.
Ngài là người của thời kỳ phục hưng, thời kỳ làm sống lại nghệ thuật và văn học dựa trên những hình thức cổ điển. Thậm chí ngài còn tự mình điêu khắc một số hình tượng trong các ngôi chùa. Dường như ngài luôn góp sức vào các công trình xây dựng của các chùa chiền khác và thậm chí được tín nhiệm và giao phó cho quyền hành về công trình xây cất chùa Drepung.
Chuyện tái sinh kỳ lạ?
Gedun Truppa dường như vô cùng hoàn hảo về sức mạnh tuyệt đối của ý chí, nhân cách và lòng quyết tâm. Tiếng chuông như ám chỉ ngài đã trở thành một bậc tâm linh siêu phàm ngay từ thời còn thơ ấu, thực hiện những phương châm của chính mình, không cần quan tâm đến những gì thiên hạ bàn tán về mình.
Tiểu sử bằng tiếng Tây Tạng đã nhấn mạnh về ngài với những phẩm chất của một tâm hồn bình thản, cách xử sự điềm đạm, khiêm nhường, và hoàn toàn không có tâm ganh tỵ hay tranh đua, không hề tự khen mình hay chê người.
Người ta kể lại rằng, Gedun Truppa viên tịch vào năm 1475 trong tư thế mà ngài đã chọn. Khi ở độ tuổi 84 với sức khoẻ không được tốt, ngài đã nói với các đệ tử là ngài sắp sửa “ra đi” và đã truyền cho họ những lời huấn thị sau cùng. Sau khi căn dặn họ phải luôn luôn ghi nhớ và thiền định về giáo lý Phật đà, ngài đã nhập mật định bằng phương pháp “Yoga trong giai đoạn hoàn tất”.
Truyền thuyết kể lại rằng, thân thể của ngài bắt đầu chuyển dạng từ một người già nua trở nên trẻ trung và phát hào quang rực rỡ. Ngài giữ nguyên trạng thái như thế trong vòng 49 ngày, không thở và tim cũng không đập, Ngài ngồi trong tư thế tukdam, một trạng thái huyền bí giữa sống và chết, ý thức dần dần rời khỏi tim và cơ thể được duy trì nguyên vẹn nhờ năng lực của thiền định.
Các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng còn truyền rằng, vị Lạt ma này đã nguyện rằng sau khi chết sẽ tái sinh để cứu độ chúng sinh và hoàn tất những gì mình chưa làm xong. Theo đại sư Gedun Truppa thì khi hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai qua các vị Đạt Lai Lạt ma.
Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, đại sư đã chỉ rõ một vài thứ đồ dùng hằng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt, ngày sau cứ theo đó mà suy đoán. Sau khi đại sư Gedun Truppa viên tịch được hai năm, các đệ tử đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả dĩ nói lên được sự tái sinh của ngài.
Chuyện kể rằng, lúc bấy giờ ở một vùng kế cận thủ đô, có một bé trai mới hai tuổi, nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của đại sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy đứa bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của đại sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé, rồi hỏi những thứ nào người đã thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nhìn tất cả các thứ, rồi lựa những di vật của đại sư Gedun Truppa để riêng ra một bên và nói: “Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước”. Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.
Sau khi đã chắc chắn đó là vị hóa thân của đại sư Gedun Truppa, các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm sư trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé được huấn luyện rất kỹ về giáo lý, quy luật và mọi thứ dành cho một vị sư trưởng sau này. Câu chuyện về sự tái sinh của đại sư Gendun được lưu truyền cho tới ngày nay, nó mang đầy màu sắc huyền bí và càng làm cho vùng đất nổi tiếng với những dãy núi tuyết trở nên hấp dẫn hơn.
Theo Pháp luật & Cuộc sống