Không mang dáng vẻ kiêu sa, hương sắc của các thảo mộc hương liệu như hồng, cúc La Mã, không quá khó tìm như Đông trùng hạ thảo hay nhân sâm, Thương nhĩ tử dễ dàng tìm thấy ở các vùng nhiệt đới của châu Âu, Bắc Trung Mỹ và châu Á. Ngay từ thời cổ đại, người Hy Lạp đã sử dụng Thương nhĩ tử để tạo nên thực phẩm màu nhuộm vàng còn ở các nước Á Đông thì sử dụng làm thuốc chữa bệnh.
Món quà của thiên nhiên
Các danh y thời xưa đã biết quan sát, tìm tòi các loài thảo dược trong tự nhiên để sử dụng trong trị bệnh. Thương nhĩ tử là một loài cây thân thảo cao khoảng 51 – 120cm với những chiếc lá hình lưỡi mác hoặc hình bầu dục, có nhiều răng cưa. mọc cách và ôm vòng xung quanh thân, các danh y dường như cảm nhận được điều kỳ diệu ẩn chứa trong loại cây bình dị này.
Với quan niệm quả chính là nơi hội tụ đầy đủ các chất trong cây của Đông dược. Đặc biệt là với chiếc áo gai mềm, loại quả này đã tập trung sự thu hút của các danh y. Đợi khi quả chín vàng, họ thu hái quả để nghiên cứu và bào chế thuốc bằng cách phơi khô, sao chín. Sau nhiều lần thử nghiệm, để loại bỏ độc tố từ gai của quả, họ đã bào chế thành công các bài thuốc có sử dụng Thương nhĩ tử. Thương Nhĩ Tử gồm bốn công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là trừ gió tán hàn, hai là thông mũi, trường hợp này thường phối chế với Tân Di và Bạch Chỉ, ba là trừ phong thấp, bốn là giảm đau.
Kế thừa và phát triển
Nhắc đến Thương nhĩ tử, không thể không nói đến bài thuốc nổi tiếng “Thương nhĩ tử tán” của danh y Nghiệm Dụng Hòa, Tự tử lễ người Giang Tây Trung Quốc điều trị viêm mũi dị ứng, viêm xoang.
Bài thuốc “Thương nhĩ tử tán” chỉ gồm bốn vị thương nhĩ tử, tân di hoa, bạch chỉ, bạc hà, tất cả được sấy hoặc phơi khô, tán thành bột mịn, dùng để uống. Trong đó, Thương nhĩ tử có vị ngọt nhạt, cay đắng, tính ấm, tác dụng phát tán mạnh đã trở thành nguyên liệu chủ yếu trong bài thuốc của ông. Bạch chỉ vị cay, tính ấm, có công dụng giải biểu, trừ phong táo thấp, tiêu thũng bài nùng (chống phù nề và làm hết mủ), chỉ thống. Tân di vị cay, tính ấm, có công dụng tán phong hàn, thông tỵ khiếu. Bạc hà vị cay, tính mát, có công dụng sơ tán phong nhiệt, thanh lợi đầu mục, lợi hầu, thấu chẩn. Qua nhiều thế kỷ, bài thuốc Thương nhĩ tử tán đã được đánh giá hiệu quả cao trong điều trị viêm mũi dị ứng, viêm xoang.
Ngày nay, loại cây thân thảo họ cúc này đã mang tên bài thuốc của danh y Nghiêm Dụng Hòa “Thương nhĩ tử tán”. Theo sách nghiên cứu của y học Thế Giới, thương nhĩ tử tán có tên khoa học là Xanthium strumarium, xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ xanthos mang nghĩa là "màu vàng". Hay trong dân gian thường gọi là Ké đầu ngựa, Phát ma, Mác nháng... Thương nhĩ tử đã được lưu truyền và sử dụng nhờ bài thuốc cổ truyền đông dược của danh y Nghiệm Dụng Hòa. Bài thuốc này đã được Công ty Cổ phần Dược TW Mediplantex kế thừa và phát huy để bào chế thành thuốc đông dược Esha giúp tiêu viêm, thông mũi chủ trị viêm mũi dị ứng, viêm xoang cấp và mãn tĩnh. Esha được bào chế dưới dạng viên giúp người bệnh tiện sử dụng. Việc biến một thảo dược quý hiếm trở nên có giá trị trong đông dược đã khó thì việc biến những thảo dược sẵn có trong dân gian mang giá trị cao để phục vụ đời sống con người lại là điều không dễ gì đối với các công ty dược hiện nay và Công ty Cổ phần Dược TW Mediplantex đã làm được điều đó.
Esha tiêu viêm, thông mũi chủ trị viêm mũi dị ứng, viêm xoang cấp và mãn tĩnh..
Thuốc trị viêm xoang Esha được sản xuất và phân phối bởi Công ty Cổ phần Dược TW Mediplantex.
Điện thoại tư vấn: (04) 36686111 & 19006043 Website:
www.mediplantex.com; www.viemmuiviemxoang.com.vn
PV